Chính sách ‘kéo’ cỗ xe tăng trưởng
Sự gia tăng về số lượng cũng như số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới trong nửa đầu năm cho thấy sự nỗ lực và tinh thần khởi nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp.
Tuy nhiên, trước diễn biến dịch tiếp tục lan rộng ra các địa phương, đặc biệt tại các khu công nghiệp, dự báo doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nặng nề hơn trong thời gian tới. Các chuyên gia cho rằng, các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp cần đúng liều, thực chất và kịp thời mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Khó khăn chưa hết
Sơ chế hàu tại Công ty BAVABI. Ảnh: baoquangninh.com.vn
Từ hai tháng nay, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Thủy sản Quảng Ninh, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh (Bavabi) đang phải xoay xở đủ cách để vừa duy trì hoạt động sản xuất của công ty vừa hỗ trợ bà con huyện Vân Đồn tiêu thụ 200.000 tấn hàu nguyên liệu đã quá kỳ thu hoạch.
Để giúp các hộ nuôi hàu và cũng là chính mình, Bavabi đã huy động các nguồn lực, trang bị thêm dây chuyền sản xuất để tăng công suất chế biến hàu nguyên liệu chờ thời cơ xuất khẩu. Tuy nhiên, dịch bệnh COVID-19 kéo dài dẫn đến hạn chế giao thương hàng hóa, thắt chặt chi tiêu, ngừng giao dịch giữa các quốc gia hàng xuất cũng cầm chừng. Bavabi lại huy động toàn bộ nhân lực, sơ chế nguồn nguyên liệu ứ đọng khổng lồ để đưa vào thị trường tiêu dùng trong nước.
“Tận dụng mạng xã hội Facebook, Zalo, Bavabi đã đưa các sản phẩm đặc sản của Vân Đồn, Quảng Ninh đến với người tiêu dùng. Đây là một trong những cách Bavabi làm để chống chọi dịch COVID-19 suốt hơn 1 năm qua”, bà Phạm Thị Thu Hiền, Giám đốc Bavabi nói.
Bavabi là một trong số hàng trăm nghìn doanh nghiệp đang tìm mọi cách để thích ứng tồn tại trước ảnh hưởng của dịch bệnh. Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm, cả nước có hơn 70.200 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong số đó, có trên 35.600 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, 24.600 doanh nghiệp chờ giải thể, 10.000 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể.
Tổng cục Thống kê chỉ ra đa số các doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh và giải thể là những doanh nghiệp thành lập dưới 5 năm, quy mô nhỏ, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực thương mại, dịch vụ – đối tượng tiếp tục chịu tác động từ dịch COVID-19. Hơn 89% doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong số trên có vốn dưới 10 tỷ đồng, trong khi trên 100 tỷ đồng chỉ khoảng 1%.
Bà Bùi Thị Thanh Xuân, Giám đốc Công ty cổ phần Basca Việt Nam cho biết, dịch COVID-19 đem đến rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể, khi dịch COVID-19 bùng phát, giá dầu thô thế giới bị đẩy lên cao, kéo theo đó là giá vật liệu đầu vào cũng tăng, các doanh nghiệp cung cấp buộc phải tăng giá, nhưng không được tăng quá từ 5-10% đơn giá đã ký với khách hàng. Điều này đã gây khó khăn cho những doanh nghiệp cung ứng vật liệu cho xây dựng như Basca Việt Nam.
Nỗ lực cho tăng trưởng
Video đang HOT
Mặc dù, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp song với triển vọng tiêm vaccine và tiềm năng tăng trưởng của thị trường, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III/2021 dự báo, có 39,2% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý II/2021; 38,6% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 22,2% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch COVID-19 đang tiếp tục lan rộng vào các tỉnh, thành phố trọng điểm, khu công nghiệp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương cho rằng, ưu tiên hàng đầu lúc này là phòng chống và dập dịch; đặc biệt tập trung cho những vùng, địa phương đang có dịch bùng phát như Bắc Giang, Bắc Ninh….và những địa phương có quy mô kinh tế và khu công nghiệp lớn như: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương…
Bà Hương đề xuất thêm, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo hệ thống ngân hàng đẩy nhanh hỗ trợ vốn, giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại thời gian trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, cho vay mới để doanh nghiệp bổ sung vốn lưu động khôi phục sản xuất kinh doanh.
Ông Bùi Danh Liên, Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội cho rằng, nếu không sản xuất, nợ vẫn còn đó, thành nợ xấu, không thể vay mới. Vì vậy, ngành ngân hàng cần giải quyết khoanh nợ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Bà Phạm Thị Thu Hiền chia sẻ, các doanh nghiệp khởi nghiệp gần như phải dùng tài sản cá nhân để thế chấp vay vốn ngân hàng nhưng không phải cá nhân nào cũng có tài sản để thế chấp, đặc biệt là các bạn trẻ. Ngoài ra, Việt Nam có các quỹ đầu tư nhưng chưa thực sự hiệu quả bởi để nhận được hỗ trợ thì thủ tục rất phức tạp và kinh phí hỗ trợ tương đối nhỏ. Vì vậy, bà Hiền đề nghị Chính phủ có các chính sách và quỹ hỗ trợ để doanh nghiệp dễ tiếp cận được hơn.
Tổng cục Thống kê cũng đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 84/NQ-CP của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh theo hướng mở rộng đối tượng được giảm lãi suất cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp; đồng thời, mở rộng đối tượng được miễn, giảm thuế.
Theo ông Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng, Tổng cục Thống kê, ngoài các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp như đang thực hiện, về dài hạn Chính phủ nên có các chính sách mới để “lôi kéo” doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đổi mới quy trình và công nghệ sản xuất. Các bộ, ngành nghiên cứu hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận kênh thông tin về xuất, nhập khẩu nhằm tìm kiếm thị trường mới nhập khẩu nguyên, vật liệu đầu vào và thị trường mới để tiêu thụ sản phầm; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử, kinh tế số, kinh tế chia sẻ.
Bên cạnh đó, Chính phủ nên hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo lại, tăng cường kỹ năng cho người lao động để lực lượng lao động đáp ứng được nhu cầu công việc trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với những thay đổi của thế giới do dịch COVID-19 tạo ra.
Hiện, cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng Chính phủ sớm ban hành gói hỗ trợ nền kinh tế lần thứ hai. Theo ông Phạm Đình Thúy, điều quan trọng nhất đối với các gói hỗ trợ của Chính phủ cho doanh nghiệp trong giai đoạn này là các hỗ trợ cần kịp thời và đúng thời điểm. Thời gian và thủ tục để doanh nghiệp nhận được hỗ trợ cần nhanh, gọn, không gây khó cho doanh nghiệp.
“Việc thực hiện các gói hỗ trợ cần có quy mô tác động đủ lớn, thời gian thực hiện trong trung và dài hạn. Chính sách hỗ trợ cần tập trung trợ giúp, khuyến khích đầu tư nhằm vào những đối tượng, khu vực đang gặp nhiều khó khăn nhất và những đối tượng có khả năng tạo nên dư địa tăng trưởng mới cho nền kinh tế”, ông Thúy nhấn mạnh.
Cải cách nhiều vẫn chưa hết bức xúc, nhiều doanh nghiệp muốn khởi kiện
Thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu đã có những cải cách tích cực, năm sau thuận lợi hơn năm trước, nhưng chưa thể hài lòng.
Vẫn còn nhiều những khó khăn, bức xúc mà doanh nghiệp phải gánh chịu.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa công bố Báo cáo về "Mức độ hài lòng của doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hành chính xuất nhập khẩu", kết quả khảo sát trong năm 2020. Báo cáo dựa trên kết quả phản hồi của 3.657 doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, sản xuất - xuất khẩu, gia công, chế xuất, dịch vụ logistics và đại lý hải quan,...
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế VCCI, Trưởng nhóm điều tra, nghiên cứu, đánh giá, trong bối cảnh dịch bệnh Covid bùng phát, đứt gãy thương mại toàn cầu nghiêm trọng, báo cáo ghi nhận những đánh giá tích cực của cộng đồng doanh nghiệp đối với ngành hải quan và các bộ, ngành liên quan trong nỗ lực cải cách thủ tục xuất nhập khẩu.
Đó là những chuyển biến tích cực về thủ tục hành chính xuất nhập khẩu, về chất lượng phục vụ của cán bộ hải quan và các cơ quan kiểm tra chuyên ngành. Mức độ phổ biến của việc chi trả chi phí ngoài quy định, trong quá trình thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu cũng đã giảm bớt.
Vẫn còn nhiều kêu ca
Mặc dù vậy, báo cáo cũng cho thấy, còn rất nhiều việc cơ quan hải quan và các bộ, ngành cần cải cách và thay đổi, để tạo thuận lợi về xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp.
Thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu đã có những cải cách tích cực nhưng DN chưa thể hài lòng (ảnh minh họa).
Cụ thể, vẫn có tới 38% số doanh nghiệp gặp khó khăn khi tìm hiểu thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu. Đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và những doanh nghiệp lớn, có tỷ lệ gặp khó khăn cao hơn các doanh nghiệp khác. Các thủ tục kiểm tra hồ sơ, hoàn thuế và không thu thuế, kiểm tra thực tế hàng hóa, tuy có chuyển đổi tích cực nhưng vẫn gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Ở các khâu: thủ tục kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa; hoàn thuế và nộp thuế, các doanh nghiệp nhận xét quy định hay thay đổi, có sự phối hợp chưa đồng bộ giữa cơ quan hải quan với các cơ quan khác, bị yêu cầu cung cấp giấy tờ ngoài quy định, cán bộ hải quan không hướng dẫn đầy đủ tận tình, không công khai thông tin và quy trình xử lý,...
Đặc biệt, việc áp mã HS (mã số dùng để phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu) và xác định giá trị hải quan bị các doanh nghiệp kêu ca, phàn nàn nhiều nhất. Nếu năm 2018, có 66,3% số doanh nghiệp gặp trở ngại khi xác nhận mã HS thì năm 2020, con số này tăng lên 76%. Ví như tình trạng không thống nhất trong áp dụng mã HS giữa hải quan và doanh nghiệp; việc tham vấn trước về mã HS với cơ quan hải quan không dễ dàng; kết quả giám định mã HS của cơ quan hải quan mất nhiều thời gian.
Bên cạnh đó, 33,9% số doanh nghiệp phàn nàn về việc xác định giá trị hải quan còn thiếu cơ sở, không thuyết phục.
Thủ tục kiểm tra sau thông quan vẫn kéo dài và chồng chéo, doanh nghiệp vẫn bị yêu cầu cung cấp thông tin và giấy tờ ngoài quy định. Chi cục kiểm tra sau thông quan kiểm tra cả những lô hàng đã được kiểm tra bởi Chi cục Hải quan cửa khẩu. Doanh nghiệp không được giải trình, giải thích những vấn đề chưa rõ trước khi có kết luận cuối cùng.
Gánh nặng kiểm tra chuyên ngành vẫn còn lớn với các doanh nghiệp. Danh mục hàng hóa kiểm tra chuyên ngành quá nhiều. Hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với chất lượng hàng hóa, an toàn thực phẩm cùng những kiểm tra khác, chỉ có 50% số doanh nghiệp cho là dễ dàng. Bộ Y tế, Bộ GTVT vẫn bị phàn nàn nhiều nhất về vấn đề kiểm tra chuyên ngành.
49,2% DN được khảo sát kêu ca thời gian giải quyết hồ sơ kéo dài hơn quy định
Có tới 55,3% số doanh nghiệp nhận xét quy trình thực hiện kiểm tra chuyên ngành phức tạp; 54,6% số doanh nghiệp phải đi lại nhiều lần để hoàn tất thủ tục; 49,2% kêu ca thời gian giải quyết hồ sơ kéo dài hơn quy định; 46,2% cho biết thông tin hướng dẫn về thủ tục khó tiếp cận; 37,5% cho rằng sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý và kiểm tra chuyên ngành thiếu đồng bộ; 34,7% bị yêu cầu về thành phần hồ sơ khó đáp ứng; 31,9% phải trả chi phí ngoài để đẩy nhanh việc giải quyết hồ sơ; 30,6% cho biết cán bộ không hướng dẫn đầy đủ tận tình; 25% nêu rõ thái độ của công chức không đúng mực trong các lần làm việc với doanh nghiệp; 22% yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin giấy tờ ngoài quy định.
Vừa online vừa bằng giấy rất phiền phức
Bình luận về báo cáo của VCCI, ông Trần Đức Nghĩa, Công ty Delta,nói rằng, tình trạng áp dụng mã HS không thống nhất đang là hiện tượng khá phổ biến. Có khi, phía Hải quan lại áp cho những mã HS khác nhau cho cùng một mặt hàng, gây khó khăn phức tạp. Việc tham vấn mã HS với cơ quan hải quan không dễ dàng, bởi hợp tác thiếu tích cực, trong khi giám định thì mất rất nhiều thời gian.
Với xác định giá trị hải quan, nhiều doanh nghiệp cũng không tâm phục, bởi có những hàng hóa, cán bộ hải quan lên mạng, tìm kiếm giá ở các sàn thương mại điện tử để áp cho doanh nghiệp, trong khi nguồn gốc và giá cả mua bán thực tế lại khác. Từ đó, dẫn đến việc ép trị giá tính thuế oan uổng. Nhiều doanh nghiệp khá bức xúc và có ý định kiện cơ quan hải quan về vấn đề này.
Thủ tục kiểm tra chuyên ngành đang lấy đi của xã hội hàng triệu giờ làm, chỉ để phát hiện ra được vài chục vi phạm mỗi năm, rất lãng phí và thiếu hiệu quả, vì vậy cần xem xét lại - ông Nghĩa kiến nghị.
Ông Trần Quang Trung, Hiệp hội Sữa Việt Nam, phản ánh, có hàng hóa hôm nay quy về mã HS này, hôm sau lại quy về mã HS khác, rất bất cập. Tỷ lệ doanh nghiệp phàn này ngày càng tăng, là dấu hiệu bất thường, cần nghiêm túc xem xét và cải cách.
Thủ tục vừa online vừa bằng giấy gây ra nhiều phiền phức. Nhiều doanh nghiệp xin cấp phép online không được. Hải quan yêu cầu nộp qua bưu điện, không cho gặp trực tiếp vì dịch Covid-19. Nhưng bưu điện cũng đang quá tải, trong khi hàng hóa cần xuất nhập khẩu. Do đó, cần đẩy mạnh làm thủ tục online để giảm thời gian, chi phí và sự phiền hà không đáng có cho doanh nghiệp, ông Trung nói.
Kết nối, tiêu thụ nông sản trong mùa dịch Dịch COVID-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến việc tiêu thụ nông sản của người dân, nhất là đối với ngành hàng trái cây. Để đảm "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh An Giang đẩy mạnh nhiều giải pháp kết nối thị trường, kịp thời hỗ trợ người dân tiêu...