Chiến thuật liều chết của không quân Đức trong Thế chiến II
Trong gian đoạn cuối Thế chiến II, không quân Đức từng áp dụng chiến thuật liều chết để chặn đà tiến công mạnh mẽ của hơn 2000 oanh tạc cơ Mỹ và Đồng minh.
Máy bay Bf-109 của Đức sau khi đâm va. Ảnh: History
Trong những ngày cuối cùng của Thế chiến II, trong cơn tuyệt vọng vì bị oanh tạc cơ Mỹ và Đồng minh tấn công dồn dập, các phi công phát xít Đức đã nảy ra ý tưởng sử dụng tiêm kích để đâm va các máy bay ném bom nhằm ngăn cản đà tiến công của đối phương, theo National Interest.
Trên thực tế, việc tấn công các mục tiêu trong lãnh thổ Đức trong Thế chiến II không hề dễ dàng. Cuối năm 1943, đơn vị không quân số 8 trực thuộc Bộ Tư lệnh Tấn công Toàn cầu của Không quân Mỹ (AFGSC) đã mất 1/5 số oanh tạc cơ vì hỏa lực phòng không và không quân Đức khi thực hiện các phi vụ ném bom thành phố Resensburg và Schweinfurt.
Tuy nhiên, tới tháng 4/1945, hệ thống phòng không Đức tan rã, còn không quân Đức cũng bị tê liệt bởi tình trạng thiếu nhiên liệu và phi công không được huấn luyện bài bản, chỉ có thể chống đỡ bằng các cuộc tấn công nhỏ lẻ.
Để tiêu diệt các phi đội oanh tạc cơ Mỹ được trang bị súng máy, Đức đã phải sử dụng các tiêm kích bọc thép được vũ trang hạng nặng. Tuy nhiên, các tiêm kích này khó cơ động linh hoạt nên dễ trở thành mồi ngon cho các tiêm kích hộ tống Mỹ. Không còn cách nào khác, phát xít Đức nảy sinh ý tưởng lái tiêm kích đâm va vào các oanh tạc cơ Mỹ.
Theo kế hoạch đó, các tiêm kích của Đức được dỡ bỏ mọi vũ khí và lớp giáp để lao nhanh nhất có thể vào mục tiêu. Sau khi đâm va oanh tạc cơ đối phương, các phi công sẽ nhảy dù thoát hiểm, khác với chiến thuật chết cùng máy bay của các phi công liều chết Nhật Bản.
“Tiêm kích Đức sẽ bổ nhào xuống mục tiêu, nhắm vào phần đuôi hoặc phần cánh máy bay. Để tránh bị vướng, cánh quạt động cơ máy bay được sử dụng như một chiếc cưa tròn để xé nát các bộ phận của oanh tạc cơ đối phương”, sử gia Adrian Weir cho biết.
Tuy nhiên, với hành động đâm va này, các phi công Đức có rất ít cơ hội sống sót. Điều khiển tiêm kích Me-109 nặng hai tấn đâm va vào một oanh tạc cơ B-17 nặng 33 tấn với đầy đủ vũ khí khi đang hành trình ở vận tốc 643 km/h là hành động rất nguy hiểm, đặc biệt khi các phi công Đức không được đào tạo bài bản và thiếu kinh nghiệm.
Video đang HOT
Ngoài ra, các chiến đấu cơ Đức khi ấy không được trang bị ghế phóng thoát hiểm nên phi công buộc phải mở cửa vòm kính buồng lái và nhảy dù khỏi chiếc máy bay bị hư hại sau cú đâm va.
Dù vậy, người Đức hy vọng chiến thuật tập kích, đâm va vào đội hình đông đảo oanh tạc cơ Mỹ sẽ gây thiệt hại nặng cho đối phương và phần nào ngăn chặn được đà tấn công đường không.
Ngày 7/4/1945, gần 200 phi công Đức thuộc đơn vị đặc nhiệm Elbe, một đơn vị gồm các phi công tình nguyện lái chiến đấu cơ liều chết thành lập đầu năm 1945, đã lên chiến đấu cơ và nổ máy xuất kích, nhằm chặn cuộc tấn công của 1.300 oanh tạc cơ B-17 và B-24 cùng 850 tiêm kích hộ tống của Mỹ.
Oanh tạc cơ B-17 của Mỹ. Ảnh: History
Kế hoạch của họ là sử dụng các tiêm kích Me-262 để tấn công đội hình chiến đấu cơ hộ tống Mỹ trong khi các tiêm kích khác của không quân Đức sẽ tấn công các oanh tạc cơ như thường lệ, tạo điều kiện cho các phi công thuộc đơn vị đặc nhiệm Elbe đâm va mục tiêu.
Trên bầu trời trải dài hàng trăm km2 ở vùng nông thôn Đức, một cuộc không chiến dữ dội đã diễn ra, các tiêm kích tấn công nhau, bắn phá oanh tạc cơ, các oanh tạc cơ bắn trả và các chiến đấu cơ lao tới đâm va.
Sử gia Weir mô tả về một vụ đâm va và âm thanh khủng khiếp sau khi các cánh quạt giống như những chiếc răng ngoạm vào đuôi oanh tạc cơ Mỹ, trong khi chiếc tiêm kích Đức văng ra xa. Âm thanh ghê rợn này bắt nguồn từ độ rung của động cơ Daimler-Benz khi cánh quạt cắt sâu vào đuôi oanh tạc cơ Mỹ và sau đó là tiếng va chạm của chiếc tiêm kích bị kéo vào cùng với nạn nhân của nó.
Theo Weir, phi đội hộ tống của Mỹ đã bắn hạ 47 tiêm kích của đơn vị đặc nhiệm Elbe Đức, trong khi lực lượng này chỉ tiêu diệt được 15 oanh tạc cơ Mỹ, không đủ để ngăn chặn cuộc tấn công dữ dội của gần 1.300 oanh tạc cơ còn lại.
“Trong những năm cuối cùng của cuộc chiến, không quân Đức với các phi công lái máy bay chiến đấu không được đào tạo bài bản thường bị bắn hạ với tỷ lệ rất lớn. Lý do mà cả phát xít Đức và Nhật chọn hình thức tấn công bằng máy bay tự sát có tổ chức như vậy là vì họ đã đến bờ vực thất bại trong chiến tranh và không thể nghĩ ra cách nào tốt hơn để kháng cự lại đà tấn công của Đồng minh”, chuyên gia quân sự Michael Peck củaNational Interest nhấn mạnh.
Duy Sơn
Theo VNE
Phát hiện hầm trốn phát xít Đức đào bằng thìa
Những tù nhân Do Thái thuộc "Lữ đoàn thiêu xác" đã đào một đường hầm để thực hiện cuộc trốn thoát đầy máu khỏi phát xít Đức trong rừng sâu Ponar, Lithuania, nơi quân phát xít từng chiếm đóng.
Nơi phát hiện đường hầm
Các tù nhân này đã bị ép buộc đốt các xác chết để che giấu tội ác của Đức Quốc xã sau khi Liên Xô tiến vào châu Âu. Họ biết rõ rằng mình cũng sẽ bị thủ tiêu, nên đã đào trước một đường hầm nơi họ bị cầm tù. 11 trong số đó đã sống sót qua chiến tranh.
Nhóm nghiên cứu từ nhiều nước như Mỹ, Israel, Canada và Lithuania đã sử dụng phương pháp chụp cắt lớp điện trở và phát hiện ra vị trí chính xác của đường hầm sau hàng chục năm trời bị che lấp.
Rừng Ponar, còn có tên khác Paneriai, nằm ở ngoại ô thủ đô Vilnius của Lithuania, nơi đa số dân Do Thái sinh sống trước khi thế chiến bùng nổ.
Hình chụp cắt lớp
Dưới sự chiếm đóng của Đức Quốc Xã, tại đây xuất hiện hàng loạt hố chôn tập thể có tổng cộng hơn 100.000 thi thể, trong đó có khoảng 70.000 là dân Do Thái, nạn nhân vụ diệt chủng vì thù ghét.
Khi Hồng quân tới đây, phát xít Đức đã cố gắng che đậy tội ác bằng cách điều 80 tù nhân từ trại tập trung Stutthof tới đây đào hố, chôn và đốt xác trong khi chân vẫn bị cùm. Họ được gọi là Leichenkommando (Đơn vị xác chết) sau này là "Lữ đoàn thiêu xác".
Một người tù nhân còn nhận ra vợ và 2 chị em trong khi thiêu các thi thể.
Thiết bị dò tìm
Bị giam hãm trong hố chôn xác, những người tù dùng thìa đào hầm. Tối 15.5.1944, 40 người đã thoát ra khỏi đường hầm chỉ rộng 60cm. Nghe thấy tiếng động, lính canh đã đuổi theo và nã súng. Chỉ có 12 người thoát chết và 11 trong số đó còn sống tới giờ, kể lại câu chuyện.
Jon Seligman, từ Cơ quan Cổ vật Israel cho biết ông đã khóc khi phát hiện đường hầm, minh chứng của chiến thắng nhờ hy vọng trong tuyệt vọng. "Có thể thấy được sự khao khát được sống trong đó", Jon nói.
Nhà khảo cổ học Richard Freund gọi đây là "khu vực số 0", bắt đầu từ lâu trước khi Đức Quốc xã bắt đầu sử dụng phòng hơi ngạt.
Theo Danviet
Lính không quân Mỹ thoát chết thần kỳ khi rơi từ độ cao 6.700 m Alan Magee là trường hợp sống sót kỳ diệu trong Thế chiến II khi rơi khỏi máy bay bị cháy ở độ cao 6.700 m mà không có dù. Một xạ thủ tháp súng trên máy bay chiến đấu Mỹ. Ảnh: US Air Force Theo trang We Are The Mighty, Alan Magee là xạ thủ tháp súng trên máy bay B-17, được đặt...