Chiến lược biển của TQ: Chuỗi ngọc trai hay Con đường Tơ lụa trên biển?
Theo mạng tin “chinausfocus” từ năm 2005, Mỹ đã cáo buộc Trung Quốc thực hiện chiến lược “chuỗi ngọc trai”, gồm các căn cứ trải dài từ Trung Đông đến Nam Trung Quốc.
Những viên ngọc trai này là các căn cứ hải quân hoặc các cảng biển có hệ thống nghe trộm điện tử được Trung Quốc xây dựng tại Myanmar, Bangladesh, Pakistan và Sri Lanka, với mục tiêu khuyếch trương sức mạnh hải quân và bảo vệ các tàu chở dầu của Trung Quốc.
Tuy nhiên, cho đến nay, người ta vẫn không thể tìm thấy một căn cứ hải quân nào của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương, mà bằng chứng rõ ràng nhất là hải quân Trung Quốc đã tham gia các hoạt động chống cướp biển tại Vịnh Aden suốt 5 năm qua mà chưa có căn cứ riêng nào. Tháng 12/2011, Ngoại trưởng của Seychelles, ông Jean-Paul Adam, đã mời Trung Quốc thiết lập một căn cứ quân sự tại quốc gia châu Phi này, nhưng Bộ Quốc phòng Trung Quốc chỉ trả lời rằng sẽ “xem xét” đề nghị của Seychelles và các nước khác.
Trung Quốc chỉ có hai mục đích tại Ấn Độ Dương là lợi ích kinh tế và an ninh của các tuyến đường biển (SLOC). Mục tiêu đầu tiên đang đạt được thông qua các tương tác thương mại với các quốc gia ven Ấn Độ Dương. Về mục đích thứ hai, từ cuối năm 2008, hải quân Trung Quốc đã tham gia các nỗ lực quân sự quốc tế chống nạn cướp biển tại các vùng biển ngoài khơi Somalia. Ấn Độ Dương đang trở nên ngày càng quan trọng với các lợi ích quốc gia ngày càng mở rộng của Trung Quốc, nhất là việc nhập khẩu năng lượng. Trung Quốc hiện nhập khẩu năng lượng từ khắp nơi trên thế giới, nhưng Trung Đông vẫn là nguồn nhập khẩu quan trọng nhất.
Cuối năm 2013, Trung Quốc trở thành quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Vì thế, Ấn Độ Dương và an ninh của các SLOC – từ Bab-el-Mandeb tại Eo biển Hormuz đến Eo biển Malacca – trở nên rất quan trọng đối với Trung Quốc.
Cảng nước sâu Gwadar, Pakistan do Trung Quốc bỏ tiền đầu tư. Ảnh: EPA
Hai quốc gia quan trọng nhất đối với tự do hàng hải của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương là Mỹ và Ấn Độ. Mỹ là quốc gia duy nhất có đủ khả năng kiểm soát những huyết mạch tại Ấn Độ Dương và cắt đứt các tuyến đường biển về Trung Quốc, nhưng dường như Mỹ sẽ không làm việc này, trừ phi xảy ra một cuộc chiến tranh tổng lực với Trung Quốc, bởi vì các SLOC là đường giao thông huyết mạch của tất cả các nước. Việc cắt đứt các SLOC của Trung Quốc cũng sẽ ảnh hưởng đến các đồng minh của Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia.
Video đang HOT
Cạnh tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc thường bị thổi phồng, nhưng Ấn Độ sẽ không thách thức Trung Quốc một cách không cần thiết. Đường vào, chứ không phải các căn cứ hải quân, mới là điều mà Hải quân Trung Quốc đang thực sự quan tâm tại Ấn Độ Dương. Những vùng biển quốc tế tại Ấn Độ Dương có thể thân thiện hơn nhiều so với các vùng biển đang tranh chấp ở Thái Bình Dương. Do Trung Quốc không có những tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ hay các nước khác tại Ấn Độ Dương, nên an ninh của các SLOC là có lợi cho tất cả các nước khác. Sứ mạng chống cướp biển hiện nay có liên quan đến hải quân của hơn 20 quốc gia và có thể trở thành mô hình hợp tác tương lai để giải quyết những nguy cơ chung tại Ấn Độ Dương.
Điều thú vị là tuyến đường mà các tàu hải quân Trung Quốc xuất phát từ phía Nam nước này để tham gia các chiến dịch chống cướp biển tại Ấn Độ Dương giống với “ Con đường Tơ lụa trên biển” mà Đô đốc Trịnh Hòa và đội tàu của ông đã từng đi vào năm 1405. Hiện nay, ban lãnh đạo Trung Quốc đang tìm cách khôi phục “Con đường Tơ lụa trên biển” này. Trung Quốc đã lập Quỹ Hợp tác Hàng hải Trung Quốc – ASEAN trị giá 3 tỷ Nhân dân tệ dành cho kinh tế hàng hải, môi trường, hải sản, cứu hộ và liên lạc trên biển. Tháng 10/2013, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đề xuất với ASEAN về việc xây dựng “Con đường Tơ lụa trên biển” của thế kỷ 21.
Tại Ấn Độ Dương, Trung Quốc đang hợp tác với các nước ven biển trong việc xây dựng Hành lang kinh tế Trung Quốc – Pakistan và hành lang kinh tế Trung Quốc – Ấn Độ – Myanmar – Bangladesh. Các dự án lớn này, với đầu tư lớn từ Trung Quốc, có thể thay đổi một cách cơ bản tình hình chính trị và kinh tế của Ấn Độ Dương và làm lợi cho tất cả các nước trong khu vực. Các dự án này cũng sẽ giúp giảm nhẹ những quan ngại an ninh trong “Con đường Tơ lụa trên biển”, từ những tranh chấp tại Biển Đông tới các nguy cơ xuyên quốc gia như cướp biển, cướp có vũ trang và khủng bố.
Theo Báo Tin Tức
Hé lộ 8 sự thật thú vị về đế chế Mông Cổ
Ít người biết rằng, tuy mạnh về phương diện vũ khí nhưng các chiến binh Mông Cổ thời xưa lại không chú ý nhiều đến áo giáp.
1. Phụ nữ Mông Cổ. Các nhà sử học thường có xu hướng miêu tả kỹ lưỡng về những đội quân Mông Cổ dũng mãnh ngoài chiến trận. Tuy nhiên, họ lại hiếm khi hoặc thường không miêu tả những người phụ nữ Mông Cổ. Điều này có vẻ khá bất công vì người phụ nữ Mông Cổ cũng có vị trí cao trong xã hội.
Trong xã hội Mông Cổ, phụ nữ được cho là có nhiệm vụ phát triển kinh tế trong khi những người đàn ông tập luyện đao kiếm, võ thuật để trở thành chiến binh dũng mãnh khi xuất trận. Thêm vào đó, phái đẹp Mông Cổ cũng đảm nhiệm vai trò là các pháp sư có địa vị trong xã hội. So với vai trò của phụ nữ Châu Âu thời kỳ trung đại, vị thế của phụ nữ Mông Cổ được đề cao hơn nhiều. Thêm vào đó, họ còn trở thành những thủ lĩnh hùng mạnh của bộ tộc.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, các con dâu và con gái của ông đã hợp sức đấu tranh để giành quyền lực cho phụ nữ, tạo thành phe phái có thế lực mạnh trong xã hội trong suốt một thời gian. Một trong những nữ thủ lĩnh Mông Cổ nổi tiếng nhất là ManduKhai Khatun. Bà là vợ của một hậu duệ Thành Cát Tư Hãn. Bà cũng là chiến binh dũng mãnh, đã cùng chồng chiến đấu tái thống nhất Mông Cổ sau loạn lạc vào khoảng thế kỉ XV. Khatun hơn chồng 13 tuổi và họ có với nhau 8 người con.
2. Hệ thống bưu chính. Người Mông Cổ sống trên thảo nguyên rộng lớn và có lối sống du mục. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và thường không ở một nơi cố định. Do có những khác biệt đặc trưng nên hệ thống thư tín để liên lạc giữa các bộ lạc hay giữa mọi người với nhau cũng rất khác biệt. Hệ thống bưu chính của đế quốc Mông Cổ cũ được gọi là Yam hay còn gọi rt có nghĩa là "trạm kiểm soát".
Nhiều du khách nước ngoài trong đó có Marco Polo đã rất kinh ngạc về độ tin cậy của hệ thống Yam. Đó là một bộ sưu tập lớn các trạm bưu chính, với các sứ giả làm nhiệm vụ chuyên phát thư, báo cáo thông tin tình báo và thông tin quan trọng từ trạm kiểm soát này đến trạm kiểm soát khác.
Mỗi trạm kiểm soát cách nhau 24-60 km và các nhân viên truyền tin thường xuyên giữ liên lạc với nhau. Tại một thời điểm, trên toàn địa bàn của người Mông Cổ có thể có ít nhất 1.400 trạm truyền tin như thế với hơn 50.000 con ngựa được sử dụng để trung chuyển.
3. Chiến thuật. Người Mông Cổ nổi tiếng với những chiến thuật chiến đấu hiệu quả và vô cùng đáng sợ. Để có được thành quả như vậy, họ đã phải rèn luyện, tu dưỡng khả năng chiến đấu của bản thân qua những trận đánh lớn nhỏ. Những thành tích chiến đấu của những chỉ huy nổi tiếng như Alexander Đại Đế hay Hannibal Barca bị đánh giá thấp hơn đội quân Mông Cổ trong thời kì đỉnh cao do Thành Cát Tư Hãn chèo lái.
Người Mông Cổ có hai lối đánh nổi bật đó là bất ngờ đánh nhanh thắng nhanh và giả vờ thua trận, rút chạy rồi bất ngờ quay lại phản công. Cả hai chiến thuật này đều làm cho hàng ngũ địch bị mất tinh thần, rối loạn. Nhiều tướng lĩnh Đông Âu đã bị thất trận trước chiến thuật thứ hai. Người Mông Cổ cũng là bậc tiền bối trong lĩnh vực bao vây và bắt giữ con tin. Sự kết hợp giữa đội quân tinh nhuệ và chiến thuật thông minh đã làm nên nhiều chiến thắng huy hoàng.
4. Con đường tơ lụa. Con đường tơ lụa là tuyến đường giao thương giữa châu Á và châu Âu. Sau khi nhà Đường ở Trung Quốc bị lật đổ, con đường tơ lụa dường như đã rời xa khỏi thời hoàng kim của đế chế Mông Cổ. Tuy nhiên, với sự hùng mạnh của Đế Quốc Nguyên Mông, nó đã dần lấy lại ánh hào quang như thời hoàng kim. Người Mông Cổ đã có được nguồn thu nhập rất lớn từ con đường huyền thoại này.
Phần lớn lộ phí đều do người Mông Cổ thu giữ. Thành Cát Tư Hãn không chỉ sử dụng con đường này để giao thương đến Châu Âu mà còn sử dụng nó để chinh phục thế giới. Ông đã bắt đầu kế hoạch đó với Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ trước tiên. Khi đó, hầu hết mọi thành phố trên con đường tơ lụa đều bị đội quân Mông Cổ chiếm đóng và chinh phục. Trong thời gian cai trị tuyến đường quan trọng này, Mông Cổ đã có những chính sách phù hợp để duy trì và kích thích phát triển thương mại giữa châu Á và châu Âu.
5. Thời kỳ hòa bình hiếm hoi của đế chế Mông Cổ. Thỉnh thoảng, sau khi con người trải qua một cuộc chiến tranh khó khăn, kết quả của cuộc chiến sẽ là hòa bình. Pax mongolica là thời kỳ hòa bình hiếm hoi của đế chế Mông Cổ. Đây là thời kỳ của hòa bình và thịnh vượng trong thế kỷ XIII-XIV. Vào thời điểm đó, đội quân Mông Cổ ở thời kỳ đỉnh cao. Đế chế của họ trải dài trên khu vực rộng gần 15 triệu km2, với dân số hơn 100 triệu người.
Sở hữu vùng đất đai rộng lớn cùng với một hệ thống thông tin liên lạc hiệu quả và thương mại quốc tế đang ở giai đoạn bùng nổ, đế chế Mông Cổ vô cùng phát triển và người dân thời kỳ đó đã sống rất hạnh phúc.
6. Vũ khí. Người Mông Cổ sống rong ruổi trên các thảo nguyên rộng lớn nên bạn đồng hành không thể thiếu của họ là những con ngựa. Họ trở nên vô cùng mạnh mẽ khi chiến đấu trên lưng ngựa. Ngựa cũng được coi là một chiến binh, một trong những thứ vũ khí không thể thiếu của người Mông Cổ.
Người Mông Cổ cũng sử dụng nhiều loại vũ khí khác như lưỡi kiếm cong giúp họ chiến đấu thuận lợi ngay cả khi đang trên lưng ngựa hay trên mặt đất. Chùy, búa, dao găm cũng là những vũ khí phổ biến. Vũ khí tấn công từ xa phổ biến nhất chính là cung tên. Trong sử sách, khả năng dùng cung tên của người Mông Cổ cũng đã được công nhận. Họ sử dụng nhiều loại tên nổi tiếng, đặc biệt là tên còi (một loại mũi tên rỗng có khả năng tạo ra âm thanh như tiếng huýt).
Loại tên này chủ yếu được người thủ lĩnh sử dụng để ra hiệu trong trận mạc. Tuy mạnh về phương diện vũ khí nhưng người Mông Cổ không chú ý nhiều đến áo giáp. Mãi đến giai đoạn sau của kỷ nguyên Mông Cổ, áo giáp mới được chiến binh thảo nguyên sử dụng nhiều. Do người Mông Cổ thích sự gọn nhẹ nên vật liệu làm ra chúng thường bằng da ngựa đã ngâm trong nước tiểu. Thỉnh thoảng, họ cũng làm bộ áo bọc thép khoác lên những chiến mã.
7. Lòng khoan dung. Trong lịch sử đã ghi nhận quân Mông là một trong những đội quân man rợ và thiện chiến nhất. Điều này hoàn toàn đúng. Họ chiến đấu vô cùng tàn bạo khi giáp mặt kẻ địch ở sa trường. Họ hiếm khi nhượng bộ kẻ địch và thường cướp bóc, giết người trong những chuyến hành quân.
Tuy nhiên sau khi chinh phục được, đối với những thành phố hay quốc gia thuộc quyền cai trị của họ thì lãnh đạo Mông Cổ lại có những chính sách khá hợp lý. Người Mông Cổ cho rằng họ phải chấp nhận những thói quen và tôn trọng sự khác biệt nên thường không bức ép thay đổi tôn giáo hay thói quen văn hóa ở vùng đất chiếm lĩnh được. Những chính sách cai trị tích cực như giảm thuế cũng được áp dụng.
8. Tatar. Người Mông Cổ đôi khi còn được gọi là người Tatar. Cái tên này có xuất xứ từ việc người Mông Cổ tự gọi chính mình là Tatar. Tuy nhiên kẻ thù của họ nhận ra rằng cái tên này nghe gần giống từ "Tartarus" - thần địa ngục trong La Mã cổ đại. Vì vậy, họ đã gọi người Mông Cổ là Tatar có nghĩa là quỷ từ địa ngục của thần Tartarus. Ảnh: Internet.
Theo Kiến thức
Thúc đẩy 'con đường tơ lụa' xuyên Triều Tiên Hiện thực hóa dự án đường sắt nối Á - Âu đi qua CHDCND Triều Tiên là mục tiêu hàng đầu trong chuyến thăm Hàn Quốc của Tổng thống Nga Vladimir Putin. Tổng thống Putin bắt tay Tổng thống Park trong cuộc hội đàm tại Seoul - Ảnh: AFP Ngày 13.11, sau cuộc hội đàm tại Seoul, Tổng thống Nga Vladimir Putin và...