Chiến lược bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa của vua chúa Việt
Trong nhiều thế kỷ, các vua chúa Việt đã thực hiện nhiều biện pháp sáng suốt để khẳng định và bảo vệ chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vua Lê Thánh Tông khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa qua bản đồ
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, từ năm 1467, vua Lê Thánh Tông đã ra lệnh điều tra hình thế sông núi thuộc địa phương để vẽ thành bản đồ, hai lần nhà vua giao cho bộ Hộ quy định những chi tiết do các quan địa phương tiến dâng để lập thành địa đồ toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt.
Bộ Hồng Đức Bản Đồ được hoàn thành vào cuối năm 1469, được bổ sung nhiều lần về sau, gồm bản đồ cả nước và các địa phương, trong đó có các vùng biển, đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã ghi lại khá toàn diện hình ảnh của quốc gia Đại Việt ở cuối thế kỷ XV.
Sự hiện diện của Hoàng Sa và Trường Sa trong Hồng Đức Bản Đồ cho thấy trước đó hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền của Đại Việt và nhà Hậu Lê sau khi chiến thắng quân Minh đã hết sức quan tâm tới việc xác lập biên giới quốc gia, khẳng định chủ quyền lãnh thổ trong đó có vùng biển, đảo.
Căn cứ vào Hồng Đức Bản Đồ, Đỗ Bá tự Công Đạo đã soạn ra bộ sách Toàn Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (1630 – 1653), ở quyển 1 có thể hiện địa mạo phủ Quảng Ngãi, phần chú thích trên bản đồ có nói tới Bãi Cát Vàng tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay.
Các chúa Nguyễn kiểm soát Hoàng Sa, Trường Sa bằng đội “Hoàng Sa” và “Bắc Hải”
Theo nhiều cứ liệu lịch sử, vào thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558 – 1783), người Việt đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa một cách liên tục, hòa bình thông qua hoạt động của các đội “Hoàng Sa” và “Bắc Hải”.
Chiến thuyền của thủy quân triều Nguyễn (mô phỏng)
Trong Hải Ngoại Kỷ Sự (của Trung Quốc viết năm 1696) chép rằng: thời Quốc Vương trước đã có những hoạt động của đội “Hoàng Sa”. Còn Phủ Biên Tạp Lục (viết năm 1776); Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (năm 1821); Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (năm 1686) đều đề cập đến các hoạt động của đội “Hoàng Sa”.
Đặc biệt, trong Phủ Biên Tạp Lục, nhà bác học Lê Quý Đôn đã chép rõ rằng: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy…”. Đây là cứ liệu lịch sử quan trọng để khẳng định, đội “Hoàng Sa” và “Bắc Hải” ra đời và thực hiện chủ quyền của người Việt đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ nửa cuối thế kỷ 17.
Theo các tài liệu, sách cổ, như: Dư Địa Chí; Đại Nam Thực Lục Tiền Biên; Đại Nam Nhất Thống Chí…, nhiệm vụ của đội “Hoàng Sa”, “Bắc Hải” rất nặng nề, không thuần túy về mặt kinh tế, khai thác tài nguyên, mà còn đảm trách việc xem xét, đo đạc thủy trình và do thám, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đứng đầu đội “Hoàng Sa” là một “cai đội” cùng những thành viên được gọi là “dân binh”. Đây là những quân nhân được Nhà nước cử làm nhiệm vụ đặc biệt ở biên ải của đất nước. Do đó, các đội “Hoàng Sa”, “Bắc Hải” là hiện thân của một tổ chức nhà nước, vừa mang tính dân sự và quân sự, vừa có chức năng kinh tế – quốc phòng ở Biển Đông thời các chúa Nguyễn.
Như vậy, với sự có mặt của các đội “Hoàng Sa”, “Bắc Hải” do Nhà nước thành lập, duy trì hoạt động có thể khẳng định, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Việt Nam.
Vương triều Tây Sơn củng cố chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa
Tiếp nối thời các chúa Nguyễn, dưới thời Tây Sơn, việc bảo vệ và khai thác các vùng đảo, quần đảo xa bờ vẫn được tiến hành thường xuyên.
Sau 4 năm dựng cờ khởi nghĩa (1771) kiểm soát từ Quảng Ngãi tới Bình Thuận (trên danh nghĩa vẫn thuộc triều Lê), chính quyền Tây Sơn đã khôi phục đội Hoàng Sa để khai thác nguồn tài nguyên phong phú và làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Video đang HOT
Dưới triều Tây Sơn, đội Hoàng Sa – lực lượng bán quân sự có tính chuyên nghiệp – được ấn định số lượng 70 suất và hoàn toàn chỉ chọn lấy người xã An Vĩnh, hàng năm cứ vào tháng 2 nhận giấy sai đi, mang đủ lương ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hóa vật của các con tàu đắm, tìm kiếm hải vật và ở lại đấy đến kỳ tháng 8 thì về, vào thành Phú Xuân để nộp.
Một nét mới dưới thời Tây Sơn, vua Quang Trung và Quang Toản còn chiêu nạp một số người Hoa bị nhà Thanh truy đuổi phải phiêu bạt trên Biển Đông gọi là “Tàu ô” (qua Chiếu dụ Tàu ô của vua Quang Trung) để họ cai quản, bảo vệ an ninh vùng Biển Đông cho nhà Tây Sơn nhằm theo dõi tình hình chống lại nhà Thanh, quân của Nguyễn Ánh và hải tặc. Đây là một chính sách quan trọng và có hiệu quả cao của nhà Tây Sơn.
Triều Tây Sơn còn tăng cường sức mạnh thực thi chủ quyền bằng việc đóng những chiến hạm lớn, hỏa lực mạnh với những kỹ thuật tiên tiến nhất thời đó. Trong sách Thánh Vũ ký, Ngụy Nguyên (1794-1857) mô tả: Thuyền của Tây Sơn cao, to hơn thuyền của nhà Thanh, trên đặt nhiều súng, hoành hành lâu năm trên mặt biển và nếu quân Thanh gặp thì cũng khó có thể địch được.
Đây là một bằng chứng góp phần khẳng định lực lượng thủy quân Tây Sơn trong thực tế đã kiểm soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ nhân của các quần đảo trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vua Gia Long lần đầu tiên cho xem xét và đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa
Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, vào năm 1803, vua Gia Long đã cho lập lại đội Hoàng Sa, một lực lượng thực thi chủ quyền đặc biệt hiệu quả đã có từ thời các chúa Nguyễn.
Dưới thời Gia Long, đội Hoàng Sa còn đảm trách thêm một nhiệm vụ đặc biệt là xem xét, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ vùng quần đảo Hoàng Sa và do thám, canh giữ ngoài biển, trình báo về bọn cướp biển…
Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 50, trang 6, năm Gia Long thứ 14 (1815) chép: “Tháng 2, sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển”.
Năm 1816, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 52, ghi rằng vua Gia Long đã bắt đầu cho thủy binh đi công tác Hoàng Sa cùng với đội dân binh ở Quảng Ngãi, để xem xét và đo đạc thủy trình. Dân phu cùng đi chính là những dân phu giỏi hải trình đi Hoàng Sa. Và nguyên nhân vua Gia Long bắt đầu cho thuỷ binh đi Hoàng Sa vì có các sĩ quan người Phương Tây trong thời chiến tranh với Tây Sơn rất quan tâm đến vấn đề quản lý biển Đông.
Những người Pháp cộng tác với vua Gia Long, gồm: Jean Baptiste Chaigneau, Giám mục Taberd đã viết rất rõ trong các tư liệu cổ phương Tây, khẳng định hoàng đế Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa.
Có thể nói, chính hoạt động lần đầu tiên xem xét và đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa của thủy quân dưới triều Gia Long là dấu mốc rất quan trọng về việc tái xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này.
Vua Minh Mạng lập khu Vạn lý Hoàng Sa, tăng cường sức mạnh hải quân
Đến thời Minh Mạng trị vì, nước ta trở thành một quốc gia cường thịnh, các nước lân bang đều nể phục, các nước phương Tây xa xôi cũng nhiều lần đến xin thông hiếu. Với sức mạnh và vị thế đó, Minh Mạng đã cho lực lượng thủy quân của mình tiếp tục quản lý, khẳng định chủ quyền một cách rõ ràng trên các hải đảo, nhất là tại các khu Vạn lý Hoàng Sa (tên gọi chung và phổ biến trước đây về 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa).
Dưới thời vua Minh Mạng, việc cải tiến kỹ thuật đóng thuyền cho cư dân đi biển đã được tiến hành sâu rộng. Không chỉ chú trọng gia tăng số lượng, mà nhà vua còn cho tăng chủng loại tàu thuyền. Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, năm Mậu Tý (1828) vua định ngạch các hạng thuyền (ấn định số lượng các loại thuyền cần đóng) ở các địa phương.
Quy chế thủy quân cũng được Minh Mạng cải tiến, ông định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà đóng cho chuẩn. Đặc biệt, vua Minh Mạng đã cho đóng thuyền bọc đồng và tàu hơi nước theo mẫu của người Pháp.
Sự quan tâm đặc biệt của Minh Mạng với ngành đóng thuyền không chỉ phục vục mục đích kinh tế, giao thương, phát triển công nghệ mà còn nhằm xây dựng lực lượng thủy quân hùng hậu, có sức mạnh và khả năng lớn trong việc xác lập, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thậm chí vào năm 1839 ông còn ra lệnh tham khảo các tài liệu phương Tây để soạn sách dạy thủy chiến, bản đồ thủy chiến sau đó cho quân lính thao diễn, luyện tập.
Tiếp nối các hoạt động thực thi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa từ thời Gia Long, dưới thời vua Minh Mạng việc các tàu thuyền đi tuần tiễu, khảo sát đo đạc tại Vạn lý Hoàng Sa theo lệ sẽ được tiến hành vào mùa Xuân. Theo các tư liệu khác nhau thì hoạt động này được thực hiện trong vòng 6 tháng, dù có năm do mưa gió, bão lớn nên việc khởi hành phải lùi lại nhưng nhiệm vụ của các tàu thuyền vẫn không thay đổi.
Đặc biệt, bên cạnh việc khai thác, tuần phòng trên biển, vua Minh Mạng còn cho tiến hành xây dựng nơi thờ tự (chùa, miếu), trồng cây, dựng cột, bia chủ quyền tại một số đảo vào các năm Qúy Tị (1833), Ất Mùi (1835), Bính Thân (1836)…
Ngoài hoạt động bảo vệ chủ quyền, khai thác tài nguyên biển, vua Minh Mạng còn lệnh cho thủy quân làm nhiệm vụ cứu hộ, giúp đỡ các tàu thuyền không cứ của nước nào gặp nạn trên vùng biển nước ta. Như vào năm Bính Thân (1836) đã cứu giúp một thuyền buôn của nước Anh gặp bão tại Hoàng Sa, cứu thoát hơn 90 người đưa vào bờ biển Bình Định cấp lương thực, nước uống, thuốc men cho họ rồi cho về nước…
Những điều đó cho thấy vua Minh Mạng không chỉ kế thừa mà còn phát triển chiến lược biển đảo của các triều đại trước lên một tầm cao mới, khẳng định sức mạnh quốc gia trên biển Đông, tăng cường hơn nữa vị trí và chủ quyền tại các hải đảo nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng. Nó cho thấy những vùng lãnh thổ thiêng liêng trên biển Đông đó muôn đời là của nước Việt.
Theo Kiến Thức
Hé mở chính sách nhân đạo trên biển Đông của vua chúa Việt
Bên cạnh hoạt động khẳng định chủ quyền, khai thác, quản lý vùng biển và hải đảo trên biển Đông, các triều đại phong kiến Việt Nam còn thực hiện hoạt động nhân
Bên cạnh hoạt động khẳng định chủ quyền, khai thác, quản lý vùng biển và hải đảo trên biển Đông, các triều đại phong kiến Việt Nam còn thực hiện hoạt động nhân đạo.
Bên cạnh hoạt động khẳng định chủ quyền, khai thác, quản lý vùng biển và hải đảo trên biển Đông, các triều đại phong kiến Việt Nam còn thực hiện hoạt động nhân đạo quan việc cứu hộ tàu thuyền nước ngoài bị nạn.
Biển Đông hàng năm phải hứng chịu nhiều cơn bão lớn, chưa kể các hiểm họa khác luôn rình rập người đi biển, đặc biệt tại khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa xưa kia được coi như một bãi đá kéo dài, là nơi mà tàu thuyền qua lại rất sợ hãi bởi những dải đá ngầm có thể đe dọa đến sự an nguy của con thuyền và những đoàn người đi trên đó.
Thuyền bè của người Trung Quốc khi qua biển Đông, đã đúc kết câu cách ngôn hàng hải như sau:
Thượng phạ Thất Châu
Hạ phạ Côn Lôn
Châm mê đà nhất
Nhân thuyền mạc tồn.
Nghĩa là:
Trên thì sợ vũng Thất Châu,
Xuống đàng dưới nữa lại sầu Côn Lôn.
La bàn kim lạc lối mòn,
Thuyền chìm, người mất, có còn gì đâu?
Thất Châu là vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi được coi là có 7 hòn đảo chính nên gọi là Thất Châu, còn Côn Lôn tức vùng biển từ Trường Sa kéo dài đến quần đảo Côn Sơn, xưa được gọi là Côn Lôn dương.
Người phương Tây cũng có nhiều ghi chép về điều này, như trong "Nhật ký chuyến đi quần đảo Paracels" của các giáo sĩ Thiên chúa trên tàu L'Amphitrite đã thuật lại sự kinh hoàng của mình khi đi qua quần đảo Hoàng Sa vào năm 1701 như sau: "Paracels là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam. Đó là bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó, nó nằm trải dọc theo bờ biển xứ Cochinchina (Đàng Trong). Tàu L'Amphitrite trong chuyến đi đầu tiên đến Trung Quốc đã suýt nữa thì bị đắm ở đó.... Có chỗ lối đi chỉ có 4,5 sải nước, nếu thoát được nguy hiểm ở đây thì như có một phép lạ.... Bị đắm tàu trên những tảng đá khủng khiếp đó hoặc bị lạc mất không còn tý nguồn dự trữ nào thì hầu như cũng như nhau mà thôi!".
Một người phương Tây khác tên là M.A.Dubois de Jancigny trong cuốn "Thế giới, lịch sử và mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Xây Lan" ấn hành năm 1850, có viết: "Quần đảo Paracels (người An Nam gọi là Cát Vàng) là một ma hồn trận thật sự của các đảo nhỏ, các đá và các bãi cát, rất đáng sợ cho các nhà hàng hải và có thể được coi là hoang dã và vô tích sự nhất trong số các điểm của quả địa cầu, đã được người Cochinchina chiếm hữu"...
Trên đây là một số ghi chép của người nước ngoài về sự nguy hiểm khi thực hiện các chuyến hải trình trên biển Đông, đặc biệt là nỗi e sợ những bãi đá ngầm thuộc vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Thế nhưng những trở ngại khó khăn này đã bị người Việt khuất phục và xác lập chủ quyền lâu đời tại vùng biển đảo đó; hơn nữa đối với các tàu thuyền của nước ngoài qua lại vùng biển Đông bị gặp nạn, các triều đại phong kiến Việt Nam còn tổ chức cứu hộ, giúp đỡ họ.
Tranh vẽ thuyền của vương quốc Ryukyu. Nguồn: http://www.japanfocus.org.
Chính sử có ghi chép về một số trường hợp vào thời Hậu Lê, triều đình giúp đỡ tàu thuyền của người Trung Quốc bị trôi dạt trên biển, cung cấp thực phẩm, nước uống và đưa họ về nước. Một chuyện khá thú vị, tuy sử sách nước ta không ghi chép nhưng trong thư tịch cổ của Nhật Bản là bộ thông sử Reikidai hoan của vương quốc Ryukyu (phiên âm là Lưu Cầu), nay là tỉnh Okinawa có ghi lại sự kiện diễn ra vào tháng 10 năm Chính Đức thứ 4, tức tháng 11 năm 1509. Vua Trung Sơn của vương quốc Ryukyu cử một đoàn sứ giả đông tới 130 người dùng thuyền mang thư và nhiều lễ vật sang nước ta tạ ơn vua Lê đã từng "cứu vớt thuyền bị nạn" của Ryukyu và tạo điều kiện thuận lợi cho thủy thủ đoàn về nước.
Có một sự kiện xảy ra dưới triều Tây Sơn không thể không nhắc đến, đó là vào tháng 4 năm Quý Sửu (1793) đoàn sứ giả nước Hồng Mao Anh Cát Lợi (tức nước Anh) trên đường tới Trung Quốc, khi đi qua biển Đông thì gặp bão, phải ghé thuyền vào cửa biển Đà Nẵng để tìm nước ngọt, mua lương thực, thực phẩm và sửa chữa thuyền.
Vua Cảnh Thịnh nghe tin bèn gửi hai tờ chiếu dụ để an ủi, bày tỏ sự cảm thông cảnh ngộ của những người gặp nạn, thông báo cho họ biết đã ra lệnh cho quần thần cấp lương thực, gạo muối, lại còn gửi quà tặng cho người đứng đầu triều đình Anh Cát Lợi "để tỏ lòng quý mến, thông cảm với khách đường xa". Đặc biệt hơn, vua Cảnh Thịnh cũng tận dụng cơ hội tuyên bố cho những vị khách đến từ phương Tây xa xôi biết về chủ quyền rộng lớn của nước Việt trên biển Đông, tờ chiếu có đoạn: "Vả lại, bản triều bao trùm cả Nam Hải. Phàm tàu viễn dương các nước muốn đến náu nơi chợ búa vùng này để buôn bán, hoặc vì sóng to mà trôi dạt tới đây, mong được yên ổn, no đủ, trẫm đều lấy lòng nhân mà đối xử, cùng sinh cùng nuôi, con người trong bốn bể như anh em một nhà".
Thuyền tuần tiễu trên biển của thủy quân nhà Nguyễn. Nguồn: www.vietthuc.org.
Đến đời vua Minh Mạng triều Nguyễn, đối với các tàu thuyền của nước ngoài qua lại vùng biển Đông bị gặp nạn, nhà vua đã ra lệnh cho thủy quân làm nhiệm vụ cứu hộ, giúp đỡ họ. Vào tháng 6 năm Canh Dần (1830), quan Thủ ngự cửa biển Đà Nẵng tâu rằng có một thuyền của Pháp bị nạn ở Hoàng Sa, một số thủy thủ dùng bè bơi vào bờ xin cứu giúp. Biết tin, vua Minh Mạng điều động thuyền tuần tiễu mang nước ngọt, lương thực ra biển tìm kiếm những người còn lại và đưa họ vào đất liền.
Theo sách Minh Mạng chính yếu, vào năm Bính Thân (1836) vua Minh Mạng còn ra lệnh cứu giúp một thuyền buôn của nước Anh Cát Lợi (tức nước Anh) gặp bão tại Hoàng Sa, sách chép rằng: "Thuyền buôn nước Anh Cát Lợi gặp gió bão ở vùng đảo Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định. Trên thuyền có khoảng hơn 90 người. Nhà vua sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn. Tất cả số người đó cúi đầu lạy tạ ân, biểu lộ nhiều lời nói và cử chỉ rất cảm kích. Quan tỉnh tâu trình việc đó về triều. Nhà vua nói rằng: "Người Tây Dương vốn có tính cứng đầu, kiêu ngạo. Phải chăng bây giờ họ vừa được mong ơn cứu tuất của ta, cho nên đã hóa được cái tục xấu đó của họ chăng?". Sau đó vua hạ lệnh cho họ về nước".
Trên đây chỉ là một vài sự kiện tiêu biểu, nhưng qua đó đã cho thấy từ xa xưa người Việt đã làm chủ trên biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc chủ quyền của nước ta, và các triều đại phong kiến luôn quan tâm, chú trọng đến việc kiểm soát, bảo vệ và thực thi các quyền của mình ở những hải đảo đó nói riêng và biển Đông nói chung, mặt khác còn thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Nó là minh chứng hùng hồn, là dữ kiện lịch sử, pháp lý hợp pháp, có sức mạnh to lớn phủ nhận những yêu sách, những hành động sai trái trong mưu đồ xâm chiếm biển Đông, chiếm đoạt các hải đảo của Việt Nam trên vùng biển đó.
Lê Thái Dũng
Theo_Kiến Thức
Giải mã chuyện vua Minh Mạng tìm đất phong thủy xây lăng 7 năm sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng đã sai quan đi tìm nơi đất kết phát để làm nơi an táng cho mình sau này. Theo sách "Đại Nam thực lục", năm 1826, vua Minh Mạng dụ cho văn võ đình thần đi tìm hai ngôi đất là "Vạn niên đại cát địa" và "Vạn niên cát địa" để dùng làm...











Tiêu điểm
Tin đang nóng
Tin mới nhất

Phó Tổng thống Mỹ JD Vance thừa nhận xung đột Ukraine 'sẽ còn kéo dài'

Xung đột Hamas-Israel: Tàu chở viện trợ cho Gaza bị tấn công ngoài khơi Malta

Chile ban bố cảnh báo sóng thần sau động đất ở vùng cực Nam

Syria tuyên bố bảo vệ chủ quyền sau cuộc không kích của Israel gần dinh tổng thống

Australia phát hiện nguồn lây nhiễm siêu vi khuẩn nguy hiểm

Lưu lượng máy bay vận tải quân sự đến trung tâm NATO ở Ba Lan bất ngờ tăng vọt

Lý do đẩy Ấn Độ và Pakistan đến bờ vực xung đột toàn diện

Nguy cơ các cơ quan tài chính toàn cầu mất vai trò nếu Mỹ rút lui

Tác động từ việc thay thế Cố vấn An ninh Quốc gia tới chính sách đối ngoại của Mỹ

AI khiến bằng đại học trở nên lỗi thời trong mắt gen Z?

Ván cược mơ hồ của Ukraine vào thỏa thuận khoáng sản với Mỹ

EU phạt TikTok 600 triệu USD
Có thể bạn quan tâm

Dàn siêu sao thế giới như "lu mờ" trước nữ phóng viên thể thao có vóc dáng "cực phẩm"
Netizen
06:59:10 03/05/2025
Yến Xuân từng tự ti vì nặng 60kg, giờ mẹ một con dáng vẫn sexy nuột nà, đây là bí kíp thay đổi ngoạn mục
Sao thể thao
06:57:29 03/05/2025
Triệu Vy tái xuất, chấp nhận chịu nhục, hạ mình để cầu cứu "phe" Châu Tấn?
Sao châu á
06:45:40 03/05/2025
10 phim Hàn khiến bạn cười lăn lộn như cá mắc cạn: Đừng xem ở nơi công cộng nếu còn sĩ diện!
Phim châu á
06:23:04 03/05/2025
Đặc sản Nha Trang và các quán ngon nổi tiếng bạn không nên bỏ lỡ khi đi du lịch Nha Trang dịp nghỉ lễ 30/4
Ẩm thực
05:57:37 03/05/2025
10 cô dâu đẹp nhất Trung Quốc: Lưu Diệc Phi xếp sau Triệu Lộ Tư, hạng 1 trời sinh để làm đại minh tinh
Hậu trường phim
05:53:57 03/05/2025
Trước khi cưới, tôi đã nghe phong thanh danh tiếng của chị chồng, về làm dâu rồi, tôi mới biết sự thật
Góc tâm tình
05:49:10 03/05/2025
Người gom phế liệu nhặt được nhẫn vàng gắn đá quý trong túi rác
Tin nổi bật
23:21:01 02/05/2025
243 bị cáo nộp lại 30.300 tỷ đồng trong các vụ án kinh tế, tham nhũng
Pháp luật
23:14:24 02/05/2025
Mỹ Tâm gặp sự cố khi diễn ở Hạ Long, nhắc thẳng khán giả hút thuốc kém duyên
Sao việt
23:09:53 02/05/2025