Chiến dịch oanh tạc Mỹ bằng 9.000 khí cầu mang thuốc nổ
Phát xít Nhật từng có một cuộc tấn công kỳ lạ chưa từng thấy: Dùng 9.000 kinh khí cầu mang theo chất cháy và những khối thuốc nổ lớn tấn công lãnh thổ Mỹ từ khoảng cách hơn 8.000 km.
Một quả bom khí cầu của Nhật bị quân đội Mỹ thu giữ.
Ngày 5.5.1945 là một ngày xuân ấm áp và Thế chiến 2 diễn ra ở một nơi nào đó rất xa. Cô bé 13 tuổi người Mỹ, Annie Fagen đi dã ngoại cùng bạn bè trong khu rừng Oregon. Trong khi các bạn đã có mặt tại khu rừng thì Annie đến trễ vì mẹ cô muốn mua một chiếc kính mới ở thị trấn Klamath Falls.
Annie không bao giờ có thể gặp lại các bạn được nữa.
Bí mật 70 năm sau mới tiết lộ
Gia đình Annie nhận được tin có một vụ nổ lớn trong rừng và toàn bộ đoàn dã ngoại 6 người đã thiệt mạng. Ở thời điểm đó, đây được coi là bí mật quân sự.
70 năm sau, Annie khi đó đã 83 tuổi mới biết được thông tin chấn động. “Chúng tôi không biết gì về khinh khí cầu. Không ai nhắc đến điều đó cả”. Đoàn dã ngoại 6 người bao gồm 5 trẻ em và một phụ nữ mang thai cũng là nhóm nạn nhân duy nhất bị đối phương giết hại ngay trên lãnh thổ Mỹ, trong Thế Chiến 2.
Thủ phạm giết chết 6 người hôm đó là thiết bị nổ do phát xít Nhật chế tạo, chở bằng khinh khí cầu bay hơn 8.000 km xuyên Thái Bình Dương, đáp xuống núi Gearheart. Những quả mìn nằm im ở đó cho đến khi các nạn nhân vô tình kích nổ.
Đó chỉ là một trong số hàng trăm khinh khí cầu chở chất nổ bay qua đại dương, rơi xuống nhiều địa điểm dọc vùng bờ tây nước Mỹ, từ bang Alaska đến vùng biên giới giáp Mexico, hay thậm chí là vào sâu trong nội địa như bang Texas, Wyoming và Michigan.
Vũ khí liên lục địa đầu tiên
9.000 khí cầu cần khoảng 30-60 giờ để đến được lục địa Mỹ. Đồ họa: Guardian.
“Các khinh khí cầu này là hệ thống vũ khí liên lục địa đầu tiên”, Robert Mikesh, sử gia không quân Mỹ nhận định. Chính quyền Mỹ khi đó đã chặn mọi thông tin về khinh khí cầu, để ngăn không cho người Nhật biết loại vũ khí táo bạo này thực tế đã đến được lục địa Mỹ và ít nhiều gieo rắc nỗi kinh hoàng.
Chiến dịch tấn công nước Mỹ bằng khinh khí cầu, cách đây hơn 70 năm của phát xít Nhật vì thế không được thông tin rộng rãi và gần như bị lãng quên.
Video đang HOT
Sau sự kiện khủng bố 11.9, Tổng thống Mỹ George W. Bush tránh nhắc đến vụ tấn công bằng khinh khí cầu Nhật Bản, khi nói với Quốc hội rằng, trận Trân Châu Cảng là lần đầu người Mỹ chỉ biết đến chiến tranh trên lãnh thổ trong suốt 136 năm.
Vụ 6 thành viên trong đoàn dã ngoại thiệt mạng khởi nguồn từ những năm 1920, các nhà khí tượng học Nhật Bản phát hiện ra dòng khí di chuyển sang phía đông ở độ cao hơn 9.000 mét. Năm 1944, phát xít Nhật muốn lợi dụng luồng gió này để trả đũa các đợt không kích của Mỹ và đồng minh.
Trong giai đoạn cuối Thế chiến 2, Nhật Bản có rất ít lựa chọn để tấn công vào lục địa Mỹ, quân Nhật đã mất nhiều tàu sân bay trong các cuộc hải chiến với quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương. Năm 1942, tàu ngầm của Nhật âm thầm tiến sát bờ biển nước Mỹ và oanh tạc các mục tiêu ở bang Oregon và California nhưng không gây thiệt hại đáng kể. Đến năm 1944, các cuộc tấn công kiểu này không còn khả thi.
Do đó, phòng nghiên cứu Kỹ thuật Quân đội Số 9 của phát xít Nhật đã tạo ra các khinh khí cầu dùng khí hydro, được biết đến với tên gọi Fu-Go. Cụm từ này nghĩa là vũ khí mượn sức gió, để tấn công trả đũa Mỹ. Các khinh khí cầu mất 30-60 giờ bay đến bờ biển nước Mỹ bằng cách sử dụng các bao cát để giữ thăng bằng và một đồng hồ kiểm soát độ cao với những quả bom treo vòng quanh.
Những quả bom được treo xung quanh thân khí cầu, với bao cát giữ thăng bằng bên dưới.
Phát xít Nhật đã thành lập 3 tiểu đoàn với nhiệm vụ tấn công bằng khinh khí cầu. Tiểu đoàn đầu tiên có tổng số 1.500 người với 9 khu vực phóng khí cầu. Tiểu toàn thứ hai gầm 700 người và tiểu đoàn thứ ba có 600 người. Ba tiểu đoàn có khả năng phóng 200 khí cầu mang theo 15 kg bom, 12 kg bom cháy và 5 kg mìn.
“Đây là các thiết kế khá thông minh. Khí cầu có thể bay cao vào ban ngày và hạ thấp vào ban đêm nhờ đồng hồ đo khí áp”, Dave Tewksbury, một thành viên khoa địa chất Đại học Hamilton, New York chia sẻ. “Cơ chế hoạt động của khí cầu trở thành một chu kỳ lên xuống liên tục gắn liền với thời điểm ngày và đêm trong hành trình xuyên Thái Bình Dương”.
Phía Nhật Bản ước tính có 9.000 khinh khí cầu như vậy cất cánh. Hàng trăm chiếc được cho là đến được lục địa Mỹ. Đa số các khí cầu này không gây ra được thiệt hại lớn, một phần do khí hậu mùa đông ẩm ướt đã dập tắt các ngọn lửa. “Vũ khí xuyên lục địa này không thành công nhưng chúng rõ ràng là nguy hiểm, thể hiện ý đồ táo bạo của phát xít Nhật”, sử gia Mikesh nói.
Tháng 3.1945, một khinh khí cầu đã làm hỏng đường dây điện dẫn đến Hanford, Washington. Đây là cơ sở hạt nhân khi đó đang sản xuất plutonium cho quả bom nguyên tử, phá hủy thành phố Nagasaki. Công việc bị gián đoạn trong một thời gian ngắn.
Bí mật lãng quên
Bảo tàng khinh khí cầu ở Albuquerque ngày nay vẫn trưng bày những quả bom chưa phát nổ của các khí cầu Nhật Bản
Nhờ sự bưng bít của truyền thông Mỹ mà người Nhật không hề hay biết về hiệu quả của chiến dịch tấn công bằng khinh khí cầu này.
Cora Conner là một trong những nhân chứng tình cờ nghe được câu chuyện của các sỹ quan cảnh sát về vụ nổ bom ở khu rừng Oregon kể lại: “Cảnh sát nói đó là một quả bom. Họ đã sử dụng đường dây điện thoại ở nhà tôi để liên lạc”.
Quân đội chặn mọi thông tin và cảnh báo người dân liên quan không được kể câu chuyện này với bất kỳ ai. “Phải mất 40 năm để tôi có thể lần đầu tiên nói lên sự thật”, Conner nhớ lại.
Có vẻ như quân đội Nhật thất vọng với kết quả của chiến dịch và từ bỏ hoạt động tiếp theo vài tháng trước khi đầu hàng quân Đồng minh vào tháng 9.1945.
Bảo tàng hạt Klamath và bảo tàng khinh khí cầu ở Albuquerque ngày nay vẫn trưng bày những quả bom chưa phát nổ mà các khí cầu Nhật Bản mang theo. Nhưng đa số người dân Mỹ không biết đến chúng. “Đó từng là một trong những bí mật lớn nhất của chiến tranh”, Marilee Mason, người phụ trách bảo tàng Albuquerque chia sẻ.
___________
Với hơn 1 triệu quân tham chiến của cả phe Đồng minh và phát xít Đức, trận Bulge được đánh giá là trận đánh đẫm máu nhất và nổi tiếng nhất trong Thế Chiến 2. Mời độc giả đón đọc bài viết xuất bản sáng sớm 5.11 về cuộc tấn công mạo hiểm cuối cùng của Hitler nhằm vào phòng tuyến quân Đồng minh ở mặt trận phía Tây.
Theo Danviet
Cá sấu xóa sổ gần 1.000 lính Nhật trong Thế chiến 2
Bị lực lượng lính thủy Anh truy đuổi vào vùng đầm lầy trên đảo Ramree trong Thế chiến 2, trung đoàn khoảng 1.000 lính Nhật không ngờ rằng đó là chuyến đi định mệnh, không có lối thoát.
Ảnh minh họa.
Theo Vintage News, trong Thế Chiến 2, quân đội Đế quốc Nhật Bản chiếm đảo Ramree vào năm 1942. Hòn đảo nằm ngoài khơi Myanmar, cách Akyabk khoảng 112 km về phía nam, khu vực ngày nay được biết đến với tên gọi Sittwe.
Bởi Ramree là cứ điểm chiến lược quan trọng, quân Đồng minh đã tấn công lên đảo năm 1945 và thiết lập một căn cứ không quân để hỗ trợ chiến dịch trên mặt đất. Giao tranh diễn ra hết sức ác liệt nhưng với sự yểm trợ từ trên không, quân Đồng minh đã lên tiếp giành thắng lợi vang dội, buộc trung đoàn khoảng 1.000 lính Nhật phải tháo chạy.
Liều lĩnh nhằm thoát khỏi sự truy đuổi của quân Anh, phát xít Nhật tiến sát đến khu vực đầm lầy ngập nước dài 16 km ở giữa đảo. Binh sĩ Nhật không hề biết rằng đó là lúc mà một trong những thảm kịch khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh sắp xảy ra.
Phớt lờ lời kêu gọi đầu hàng của quân Anh, trung đoàn lính Nhật bước vào đầm lầy vốn hoang sơ và nhiều nguy hiểm với tốc độ ngày càng chậm dần. Nhiều người trở thành nạn nhân của muỗi, nhện, rắn, bò cạp kịch độc ẩn mình trong những bụi cây trong đầm lầy.
Lính Anh đổ bộ lên đảo Ramree.
Suốt hành trình kéo dài vài ngày qua vùng đầm lầy này, quân Nhật dần thiếu thiếu nguồn nước sạch để uống và nạn đói bắt đầu xảy ra. Nhưng đó chưa phải cơn ác mộng lớn nhất, thảm họa kinh hoàng kinh hoàng thực sự đang chờ đón phát xít Nhật.
Trong một đêm tuần tra quanh khu vực, nhóm quân Anh nghe thấy những tiếng la thất thanh và tiếng súng nổ trong đêm tối. Họ không biết chuyện gì xảy ra, chỉ có lính Nhật mới biết mình trở thành mục tiêu tàn sát của đàn cá sấu khát máu.
Trung đoàn phát xít Nhật không gặp may bởi vùng đầm lầy trên đảo Ramree là nơi cư ngụ của vô số những con cá sấu nước mặn khổng lồ với số lượng không xác định. Những con cá sấu này khi trưởng thành dài 6 mét, nặng hơn một tấn và là một trong những loài bò sát ăn thịt lớn nhất thế giới.
Những người lính mệt mỏi với những vết thương rỉ máu giữa đầm lầy trở thành mồi ngon cho cá sấu. Ngay cả một con cá sấu nước mặn cỡ trung bình cũng có thể dễ dàng sát hại người trưởng thành.
Lính Nhật trong Thế chiến 2.
Họ đã bị những con quái vật bò sát khổng lồ này tấn công và tàn sát không thương tiếc. Những người sống sót sau đó kể lại giây phút loài động vật hung dữ vùng đầm lầy bất ngờ tấn công họ, còn những người lính trong cơn hoảng loạn chỉ biết bắn loạn xạ về mọi hướng.
Những người sống sót mô tả những con cá sấu bất thình lình lao lên từ đầm lầy, ngoạm lấy những người lính đang la hét và kéo tuột họ xuống bùn. Thảm kịch này đã được nhà tự nhiên học Bruce Stanley Wright, một người lính Anh tham gia trận chiến đó, mô tả trong cuốn "Wildlife Sketches Near and Far " (Phác họa Cuộc sống Hoang dã Gần và Xa) năm 1962.
"Đó là đêm kinh hoàng nhất mà các thành viên đội chúng tôi từng trải qua. Những con cá sấu bị đánh thức bởi những tiếng súng và mùi tanh của máu, tụ tập xung quanh những cây đước, trong khi mắt nhô lên khỏi mắt nước và lặng lẽ bơi về phía con mồi. Theo từng cơn sóng thủy triều, những con cá sấu lao tới đám lính đang bị thương, bị chết và cả những người khỏe mạnh mắc kẹt trong bùn lầy", Wright viết trong cuốn sách.
Cá sấu nước mặn.
Wright mô tả, "cảnh tượng như vậy, tôi nghĩ, rất ít người trên Trái đất này có thể chứng kiến được. Vào lúc bình minh, đàn kền kền kéo đến dọn sạch những gì mà lũ cá sấu bỏ lại... Gần 1.000 lính Nhật tiến vào đầm lầy Ramree, người ta chỉ tìm được hơn 20 người còn sống".
Cho đến nay, câu chuyện của Wright là dữ liệu lịch sử duy nhất còn lưu lại về thảm kịch trên trận chiến đảo Ramree. Một số nhà sử học và sinh vật học tỏ ra hoài nghi tính xác thực của câu chuyện này. Số khác tin rằng câu chuyện Wright kể là có thật nhưng số lượng đàn cá sấu và số lính Nhật bỏ mạng tại đầm lầy trên thực tế có thể thấp hơn.
Bất chấp những tranh cãi, trận chiến trên đảo Ramree được Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận là sự kiện "có nhiều nạn nhân nhất trong một cuộc tấn công của cá sấu".
Câu chuyện rùng rợn trên đảo Ramree đã trở thành một trong những truyền thuyết của Thế chiến II. Nhiều năm sau đó, đảo Ramree vẫn đem đến một nỗi sợ hãi. Những con cá sấu nước mặn vẫn ở đó cho đến tận ngày nay.
Theo Đăng Nguyễn - Vintage News (Dân Việt)
5 kho báu bí ẩn chưa có lời giải trong Thế chiến 2 Đoàn tàu chở vàng của Đức quốc xã, kho báu 6.000 tấn vàng của phát xít Nhật là hai trong số những kho báu giá trị nhất trong Thế chiến 2 mà cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Hàng nghìn tỷ USD giá trị đồ trang sức, vàng và bức tranh quý được cho là đã bị đánh cắp hoặc...