Chiêm bái cổ tự có ‘chuông Thần, giếng Phật’ nơi xứ Quảng
Chùa Thiên Ấn được xây dựng cuối thế kỷ 17 trên ngọn núi cùng tên bên bờ sông Trà Khúc gắn với nhiều huyền thoại lịch sử của miền đất Quảng Ngãi giàu truyền thống văn hóa, cách mạng.
Toàn cảnh chùa Thiên Ấn
Ngôi chùa cổ niên đại trên 300 năm
Nằm ở độ cao khoảng 100 m trên đỉnh núi Thiên Ấn, chùa Thiên Ấn thuộc địa phận xã Tịnh Ấn Đông, TP Quảng Ngãi. Ngôi cổ tự được ôm trọn bởi cánh rừng xanh mướt rộng khoảng một hecta. Theo lịch sử ngôi chùa, chùa được xây dựng vào năm 1694, hoàn thành vào cuối năm 1695 và là một trong những ngôi nhà chùa cổ nhất Quảng Ngãi với niên đại trên 300 năm tuổi.
Tương truyền, cánh rừng và ngọn núi Thiên Ấn xưa kia rậm rạp hiểm trở, là nơi trú ẩn của nhiều thú dữ như cọp, beo… Người dân sợ thú dữ ăn thịt nên mỗi khi đi rừng thường đi thành đoàn để tiện bảo vệ nhau và họ không dám bén mảng lên núi mà chỉ quanh quẩn nhặt củi, kiếm sản vật dưới chân núi.
Tam quan ngôi chùa.
Thế rồi một hôm, đoàn người đi rừng bỗng phát hiện có một con đường mòn dẫn lên núi Thiên Ấn chứng tỏ có vết tích người sống trên đỉnh núi hiểm trở này. Tò mò men theo vết chân, họ bắt gặp một thiền sư.
Thì ra bao năm nay vị sư đã ẩn mình trên núi, nương vào nước suối thanh tịnh và hoa trái của núi rừng để tĩnh tâm tu tập trên đỉnh Thiên Ấn. Đó là thiền sư Pháp Hóa – vị tổ sư đã dựng thảo am trên đỉnh Thiên Ấn để tu thiền.
Bức tượng Đức Phật dưới tán bồ đề bên cánh rừng trăm tuổi lắng nghe cầu nguyện của muôn nỗi nhân gian.
Video đang HOT
“Ở ngài toát lên lòng từ bi và trí huệ, ngài đã giảng cho người dân về đạo Phật và lẽ nhân sinh. Càng về sau nhiều người dân đến thảo am để nghe giảng Phật pháp”, Hòa thượng Thích Đồng Hoàng – Phó trụ trì chùa Thiên Ấn kể bằng lòng thành kính. Danh tiếng ngôi chùa và vị thiền sư lan truyền đến chúa Nguyễn Phúc Chu, một người sùng đạo Phật. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn tự”.
Kỳ lạ chuông Thần, giếng Phật
Trong chùa Thiên Ân hiện có một bảo pháp quý giá là đại hồng chung còn gọi là chuông thần. Chuông này được đúc ở làng Chí Tượng, nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Tương truyền, quả chuông này đúc xong, đánh không kêu. Năm 1845, thiền sư Bảo Ấn, tổ sư thứ ba của chùa đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp báo mộng tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Sau thiền sư cầu nguyện, bỗng nhiên tiếng chuông thỉnh lên vang vọng khắp cả vùng. Từ đó người dân gọi đây là chuông thần.
Quả chuông được mệnh danh chuông thần chùa Thiên Ân.
Ngoài chuông thần, trong chùa Thiên Ấn còn có huyền tích về “giếng Phật”. Cũng giống như chuông thần, dấu tích giếng Phật hiện nay vẫn còn với nét kiến trúc rêu phong, cổ kính. Người dân kể lại, ngược dòng thời gian vào ba thế kỷ trước, dù núi rừng hiểm trở, đi lại khó khăn nhưng vì nghe danh tiếng ngôi chùa linh thiêng cũng như cảm phục tài năng, đức độ của vị thiền sư nên phật tử lên núi ngày càng đông, vị sư trụ trì đã nghĩ cách đào giếng trên đỉnh núi để dân có nước uống.
Nhà sư được báo mộng khi đào ở phía đông chùa sẽ gặp tảng đá bàn, dưới tảng đá này sẽ có nước. Nhưng việc cạy tảng đá rất khó khăn, may thay đúng lúc đó có một vị sự trẻ đến chùa nói sẽ giúp việc đào giếng. Khi mạch nước ngầm phun lên, vị sư già vục mặt, uống thỏa thích, bình tâm lại thì không thấy vì sư trẻ đâu cả. Thì ra đó chính là thần tiên hiện về giúp lão thiền sư. Về sau dân gian lưu truyền hai câu thơ: “Ông thầy đào giếng trên non/ Đến khi có nước không còn tăm hơi”. Giếng ấy được người dân gọi là giếng Tiên.
Dấu tích giếng tiên.
Ngôi chùa với lịch sử 300 năm tuổi đã trải qua những thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, trải qua bom đạn chiến tranh nhưng cơ bản vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, cổ xưa. Với bề dầy truyền thống lịch sử văn hóa, Chùa Thiên Ấn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1990.
Chùa Thiên Ấn hiện nay được tôn tạo lại trên nền ngôi cổ tự xưa kia, tương truyền chính là thảo am xưa kia nơi Pháp Hóa thiền sư tu hành. Đi quan cổng tam quan được thiết kế đẹp mắt với nghệ thuật khá cầu kỳ như rồng chầu mặt nguyệt, cửa cuốn mái vòm, phía trên có thần Hộ Pháp trấn cửa, bạn sẽ bước vào không gian văn hóa tâm linh đặc sắc, thanh tịnh mà vẫn thoáng đãng.
Vườn mộ tháp trong khuôn viên chùa.
Trong khuôn viên chùa có rất nhiều cây cổ thụ, các loại kỳ hoa dị thảo khiến du khách có cảm giác tĩnh tâm, thư thái. Một bức tượng Phật lớn an tọa dưới gốc cây bồ đề trăm năm tuổi là nơi lắng nghe tất cả những tâm nguyện của nhân gian.
Sau chùa có một vườn mộ tháp là nơi an táng của các vị sư tổ, thiền sư trụ trì với những ngôi bửu tháp có hình hoa sen được xây dựng ở phía đông trong khuôn viên chùa. Sau khi cúng Phật và vãng cảnh chùa, du khách đừng quên tham quan vườn mộ tháp để thành tâm tưởng nhớ những bậc thiền sư đã dầy công tu tập và gây dựng lên ngôi chùa Thiên Ấn với không gian văn hóa tâm linh đặc sắc này.
Nghề cào don trên sông Trà Khúc
Sông Trà Khúc với những vệt bùn cát trải dài trong quá trình cào don như một bức tranh nghệ thuật khi được nhìn từ trên cao.
Sáng sớm, có hơn 10 ghe tập trung để cào don tại đoạn cuối sông Trà Khúc. Người dân làng Cổ Lũy - Vĩnh Thọ Bắc, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa đã coi đây là nghề truyền thống để mưu sinh từ bao đời nay.
Bộ ảnh "Nghề cào don" được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia Nguyễn Tấn Tuấn, là người Quảng Ngãi hiện sống tại TP HCM. Chia sẻ về quê hương mình, anh cho biết ngoài núi Thiên Ấn, không thể không nhắc đến sông Trà Khúc, dài khoảng 140 km. Con sông mang đến cho người dân nhiều sản vật ngon như don, cá bống, cá thài bai...
Anh Tuấn chia sẻ, người dân cào don phải ngâm mình, lội nước trong 4 - 6 tiếng. Nhiều người khi đang hành nghề giẫm phải chai và có khi bị chuột rút chân.
Trên địa bàn xã Nghĩa Phú có gần 100 hộ dân sống bằng nghề này. Họ "ăn sông ngủ nước" cùng don, mang theo cơm và ra đồng khi bình minh ló dạng. Trung bình mỗi ngày, một người cào trên dưới 20 kg don, bán cho thương lái và phần còn lại mang về chế biến các món ăn cho gia đình.
Người dân Cổ Lũy cào don chủ yếu từ tháng 2-9, nhưng nhu cầu khách mua ngày càng nhiều nên họ khai thác đến tận dịp Tết Nguyên đán để bán.
Dụng cụ cào don nặng hơn 10 kg, gồm một cán tre dài 2,5 m và thùng cào dài một mét. Cào được gắn với dây đeo vào ngang hông, người cào một tay cầm cán tre và tay còn lại tỳ thắt lưng lấy thế đi giật lùi.
Những năm gần đây, người dân trăn trở vì don ngày một ít dần. Họ mong cho môi trường sông nước trong lành để don tiếp tục sinh sản, để giữ món ngon lâu đời xứ Quảng.
Don là loài nhuyễn thể, vỏ có hai mảnh hình dẹt và dài chỉ khoảng 1 cm, bên trong thịt có màu trắng đục và tua xung quanh. Chúng cùng họ hến nhưng có ruột dài và thịt thơm ngon hơn. Don có màu vàng do sống và ăn sâu trong lớp cát.
Để chế biến don phải chà vỏ, rửa sạch, ngâm cho nhả hết cát, rồi luộc cho đến khi chúng há miệng. Để riêng phần nước luộc và con, dùng đũa khuấy đều cho phần thịt rớt ra khỏi vỏ. Don có thể làm nhiều món ngon như canh, cháo, xào khô.
Dòng Trà Khúc nuôi sống biết bao thế hệ người dân mưu sinh bằng nghề sông nước, đặc biệt là cào don. Nghề này nếu ai học nhanh thì từ 5 ngày đến một tuần, người chậm có khi đến 2 tháng.
Những vệt bùn cát kéo dài trên hạ lưu sông do cào don giao hòa với màu nước xanh như bức tranh đời sống khi nhìn từ trên cao.
Người dân cào don gần cây cầu Cổ Lũy, khi đang hoàn thành những hạng mục cuối cùng. Cầu hiện đã hoàn thành, thông xe ngày 20/10/2020, với chiều dài gần 1.880 m, được thiết kế bằng bê tông cốt thép dự ứng lực.
Cánh đồng hoa cải ven sông Trà Khúc, điểm check-in làm "mê mẩn" giới trẻ Quảng Ngãi Từ khoảng thời gian cuối tháng Giêng Âm lịch đến đầu tháng Ba trong năm, người dân Quảng Ngãi lại được dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hoa cải vàng ven bờ sông Trà Khúc. Nơi đây cũng thu hút nhiều bạn trẻ đến chụp hình, nhằm lưu lại những khoảnh khắc đáng nhớ. Những ruộng hoa cải vàng ươm đang khoe sắc...