Chiếc vạc đồng khổng lồ gần 300 tuổi ở xứ Thanh
Vạc đồng Cẩm Thủy vốn là biểu tượng quyền lực của vua chúa thời phong kiến nhưng lại được một viên quan khâm sai huyện cho đúc gần 300 năm trước.
Vạc đồng Cẩm Thủy là một trong 8 bảo vật quốc gia có xuất xứ Thanh Hóa. Hiện vậy được công nhận bảo vật quốc gia ngày 30/12/2013 và đang được bảo quản tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa. Các nhà nghiên cứu nhận định, vạc đồng Cẩm Thủy có giá trị đặc biệt gắn liền với lịch sử thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 16-18), là minh chứng sinh động cho kỹ nghệ đúc đồng đạt đến trình độ hoàn hảo từ nhiều thế kỷ trước ở Việt Nam.
Vạc Cẩm Thủy nặng khoảng một tấn. Ảnh: Lê Hoàng.
Chiếc vạc đồng độc nhất Việt Nam
Khoảng đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, trong quá trình đào đắp một công trình tại khu vực ngã ba Đình Hương (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa), Ban Chỉ huy quân sự thành phố phát hiện chiếc vạc khổng lồ không rõ niên đại và còn khá nguyên vẹn. Hiện vật sau đó được đưa về bảo quản tại trụ sở Ban chỉ huy quân sự TP Thanh Hóa hơn 20 năm, mãi đến đầu tháng 8/2002 mới bàn giao cho Bảo tàng Thanh Hóa quản lý.
Vạc làm bằng đồng, nặng khoảng một tấn, cao 79,8 cm, đường kính miệng 134,4 cm, đường kính đáy 115 cm. Trên miệng gắn 6 quai hình chữ U trang trí kiểu vặn thừng, nằm cách đều nhau. Bên trong thành miệng vạc tạo gờ, giữa tai quai trang trí các chấm tròn nổi tạo thành bông hoa 5 cánh (nhụy hoa là một chấm tròn to, cánh hoa là 5 chấm tròn nhỏ) tương tự hình bông hoa chanh. Giữa các quai trang trí hoa lá hình dây (gồm 4 cụm). Ngoài ra, trên miệng vạc còn có hai dòng chữ Hán đối xứng nhau, mỗi dòng gồm 11 chữ, nét chữ nổi đậm, rõ ràng.
Bên ngoài sát dưới thành miệng vạc trang trí một băng hoa văn hình hoa chanh xen kẽ vân mây và được giới hạn bởi hai đường gờ nổi chạy quanh. Ngăn cách phần thân với miệng và đáy vạc là đường gờ nổi đậm hình sống trâu, hai bên có hai đường gờ nổi nhỏ chạy quanh, thân vạc trang trí các đường gờ nổi tạo thành kiểu bổ ô dọc (gồm 6 ô). Sát đáy vạc có một đường gờ nổi chạy quanh, một bên sát đường gờ (đối diện phần quai xuống đáy) có hình một lỗ lõm tròn. Toàn thân vạc được phủ một lớp patin màu xanh rỉ đồng.
Miệng vạc hơi loe, phía trên có gắn 6 quai kiểu vặn thừng khá chắc chắn. Ảnh: Lê Hoàng.
Hai dòng chữ Hán trên miệng vạc cho biết năm chế tác và chủ nhân của chiếc vạc quý: “Cẩm Thủy huyện Khâm sai chính thống lĩnh Quận công tạo. Nhâm Thân niên, thập nhất nguyệt, nhị thập bát nhật chú”. Các nhà nghiên cứu xác định chiếc vạc lớn do Tạo Quận công, tức quan khâm sai huyện Cẩm Thủy Phạm Ngô Cầu sai đúc ngày 28/11 (âm lịch) năm 1752, thời Lê Trung Hưng.
Bà Bùi Thị Luận, Trưởng Phòng kiểm kê bảo quản (Bảo tàng Thanh Hóa) cho hay, vạc đồng Cẩm Thủy là hiện vật gốc độc bản, mang tính địa phương rõ rệt và được đánh giá là vạc đồng nguyên vẹn lớn nhất Việt Nam cho đến nay. “Do kích cỡ quá lớn nên bảo tàng chưa đem cân vạc lần nào, chỉ ước chừng hơn một tấn”, bà Luận nói và cho hay cũng do ngoại cỡ nên hiện vật chưa được trưng bày mà cất giữ trong kho. Mỗi lần di chuyển vạc đều phải dùng máy cẩu mới nhấc nổi.
Video đang HOT
Tranh cãi về mục đích sử dụng vạc khổng lồ
Theo bà Nguyễn Thanh Hiền, Phó giám đốc Bảo tàng Thanh Hóa, quá trình khảo cứu vạc đồng Cẩm Thủy, các nhà nghiên cứu đã đặt ra nhiều giả thuyết và tìm cách giải đáp nhưng cũng chưa có lý giải nào có tính thuyết phục cao.
Theo sách Lê Quý kỷ sự (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1974), “vạc tượng trưng cho cơ nghiệp thiên tử”, chỉ có vua chúa mới cho đúc và sở hữu những chiếc vạc lớn nhằm thể hiện quyền uy gia tộc. Hiện Việt Nam chưa địa phương nào có chiếc vạc đồng lại do một quan khâm sai huyện cho khởi đúc, ngoại trừ 15 chiếc vạc đang trưng bày ở kinh thành Huế do vua chúa nhà Nguyễn sai đúc. Trong số đó có 11 chiếc do hai chúa Nguyễn Phúc Chu (1631-1635), Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) sai đúc và 4 chiếc do vua Minh Mạng (1820-1840) cho đúc.
Câu hỏi đặt ra là vì sao một vị quan khâm sai lại cho đúc chiếc vạc lớn vốn được xem là biểu tượng uy quyền của các bậc đế vương. Phạm Ngô Cầu cho làm ra chiếc vạc lớn này phải chăng nhằm lưu lại sự nghiệp hiển vinh của mình hay còn có mưu đồ gì ẩn giấu phía sau là những câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998) cho biết, trong thời gian giữ chức trấn thủ phủ Thuận Hóa, Phạm Ngô Cầu luôn quan tâm đến việc học hành của dân chúng. Năm 1777, ông đề nghị chúa Trịnh Sâm cho khôi phục việc học hành ở Thuận Hóa vốn bị gián đoạn do chiến tranh liên miên nhiều năm. Chúa Trịnh Sâm sau đó chấp thuận, cho mở trường thi hương để thu hút hiền tài cho đất nước.
Hai dòng minh văn chữ Hán giúp xác định niên đại và chủ nhân chiếc vạc quý. Ảnh: Lê Hoàng.
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992) ghi: “Phạm Ngô Cầu là một võ tướng nhà Trịnh, được ban tước Tạo Quận công. Ông được Lê Hiến Tông và Trịnh Sâm rất tín nhiệm, thường giao cho những công vụ quan trọng. Ông có tài dùng binh, khi làm trấn thủ phủ Thuận Hóa, phải đối đầu với nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1786 vì mắc kế phản gián của nhà Tây Sơn, ông bị chiếm mất thành, phải tự trói mình đầu hàng. Các tướng Tây Sơn giải ông về Quy Nhơn rồi xử tử hình cùng năm”.
“Không có ghi chép về thời gian Phạm Ngô Cầu làm quan khâm sai huyện Cẩm Thủy, nhưng qua những ghi chép về giai đoạn ông làm trấn thủ phủ Thuận Hóa cho thấy, ông là người có tiếng nói rất quan trọng trong triều đình bấy giờ. Vì vậy, theo các nhà sử học, việc cho đúc chiếc vạc lớn nhiều khả năng là nhằm thể hiện uy lực cá nhân”, bà Hiền nhận định.
Lê Hoàng
Theo VNE
Ngai vàng duy nhất còn lại ở Việt Nam
Trong 143 năm tồn tại, 13 đời vua triều Nguyễn đã ngự tọa trên ngai vàng ở điện Thái Hòa (Kinh thành Huế), trong đó có vua chỉ ngự được 3 ngày.
Triều Nguyễn được vua Gia Long lập lên vào năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn. Trải qua 143 năm, chiếc ngai vàng là biểu tượng quyền lực của triều đại, được truyền qua 13 đời vua. Ngai cao 101 cm, rộng 72 cm, dài 87 cm. Phần đế dài 118 cm, rộng 90 cm, cao 20 cm. Phía trên ngai có bửu tán thếp vàng lộng lẫy. Tất cả đều được làm bằng gỗ với các hình ảnh trang trí rồng mang ý nghĩa cầu phúc, cầu thọ, cầu may mắn.
Hiện ngai vàng vẫn được gìn giữ trong điện Thái Hòa, thuộc khu vực Đại nội của Kinh thành Huế. Tháng 1/2016, ngai vàng được xếp hạng bảo vật quốc gia. Bà Huỳnh Thị Anh Vân, Giám đốc Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế, cho biết đây là bảo vật độc bản. Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam để lại ngai vàng và đó là một trong những lý do chiếc ngai được công nhận bảo vật.
"Giá trị ở đây là duy nhất", bà Vân nói.
Chiếc ngai khá giản dị nhưng được chạm khắc tinh xảo. Ảnh: Nguyễn Đông.
Ngai vàng chứng kiến nhiều cuộc tranh giành quyền lực
Giai đoạn nhà Nguyễn độc lập kéo dài 56 năm, qua bốn đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đến năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và đô hộ. "Có giai đoạn ngai vàng đẫm máu trong những cuộc tranh giành ngôi vua, như 4 tháng thay 3 vua, nhưng không ai dịch chuyển chiếc ngai đi nơi khác", nhà nghiên cứu Huế Phan Thuận An cho hay.
Câu chuyện 4 tháng thay 3 vua là giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử nhà Nguyễn, xảy ra sau khi vua Tự Đức băng hà. Do không có con nối dõi nên vua nhận 3 người cháu làm con nuôi. Vua Dục Đức được chọn để truyền ngôi nhưng trong lễ đăng quang trên ngai vàng đã yêu cầu quan đại thần bỏ bớt những dòng vua cha đánh giá không tốt về mình trong Di chiếu. Sau đó vua bị hai quan đại thần phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đề nghị phế truất. Dục Đức làm vua chỉ được 3 ngày rồi bị bỏ đói đến chết trong ngục tối.
Sau Dục Đức, Hiệp Hòa là con thứ 29 của vua Thiệu Trị (em khác mẹ của vua Tự Đức) được Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đưa lên làm vua. Tương truyền, trong lễ đăng quang có một con quạ đen bay đến đậu trên ngọn cây trước điện Thái Hòa, kêu lên 4 tiếng. Như một điềm báo trước, vua giữ ngai được 4 tháng và bị xử tử theo lệ của cung đình vì duyệt tờ biểu trừ khử hai quan quyền thần Thuyết và Tường.
Cũng chính quan Thuyết và Tường sau đó quyết định chọn người con nuôi khác của vua Tự Đức là hoàng tử Ưng Đăng kế thừa ngôi báu. Từng chứng kiến hai cái chết liên tiếp, vị hoàng tử sợ sệt khi hai quyền thần đến đưa về kinh làm vua khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Kiến Phúc. Tuy lên làm vua nhưng Kiến Phúc luôn lo âu khi ngồi trên ngai vàng. Tâm trạng căng thẳng khiến nhà vua thường xuyên đau ốm và chết sau 8 tháng đăng quang.
Trong 13 vua triều Nguyễn, duy nhất vua Đồng Khánh lên ngôi không do vua cha truyền lại hay do triều đình tôn lên. Ông tự vận động và được thực dân Pháp đặt lên ngai vàng. Vị vua này cũng lén lút lấy của cải quốc gia chôn giấu trong đại nội để xây dựng lăng, điện; dựa vào sức mạnh của Pháp để giết hại những ai không về phe với mình...
Bửu tán được chạm khắc tinh xảo. Ảnh: Nguyễn Đông.
Không ai dám phạm thượng với ngai vàng
Nhà nghiên cứu Huế Phan Thuận An cho biết, vào những dịp lễ đăng quang, sinh nhật vua, đón tiếp sứ thần hay các buổi đại triều, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng đặt giữa điện Thái Hòa, khu vực Đại nội của Kinh thành Huế. Phía trong điện chỉ có các quan tứ trụ và những hoàng thân quốc thích mới được diện kiến nhà vua. Các quan khác có mặt đông đủ, đứng sắp hàng ngang theo thứ tự ghi trên các phẩm sơn bằng đá nhỏ đặt bên sân, theo nguyên tắc quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải.
Theo ông Phan Thuận An cho biết, thời nhà Nguyễn trong kinh thành có những đội thợ chuyên chế tác đồ dùng cho hoàng gia và triều đình. Do đó, chiếc ngai được đóng tại chỗ chứ không phải đặt làm ở nước ngoài. "Đến thời vua Khải Định, nhà vua cho trùng tu lại điện Thái Hòa và có cho làm lại bửu tán phía trên ngai vàng, chuyển từ chất liệu gấm lụa sang gỗ sơn son thếp vàng và chạm khắc tinh xảo", ông An nói và cho hay vì là chiếc ngai duy nhất nên không có chiếc thứ hai để so sánh về mặt nghệ thuật.
Kể câu chuyện được chứng kiến khi còn làm việc cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, ông An cho biết đầu những năm 90 có một đoàn làm phim về vua Thành Thái vào điện Thái Hòa để thực hiện một số cảnh quay vua ngồi trên ngai. Nhân vật đóng vai vua phải quỳ lạy chiếc ngai rồi mới dám lên ngồi. "Họ tôn trọng sự thiêng liêng của ngai vàng, nơi những ông vua là nguyên thủ quốc gia từng ngồi", ông An nói.
Vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều nhà Nguyễn ngồi trên ngai vàng. Ảnh: Tư liệu.
Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh yêu cầu các địa phương giữ gìn di vật, bảo vật do các đời trước để lại, không được phá hủy. "Điều kỳ lạ là sau những biến cố của lịch sử, chiếc ngai vẫn đang còn đó. Cũng có thể không được khảm kim châu, ngọc quý nên không bị lấy mất", Giám đốc Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế nói.
Nhà nghiên cứu Phan Thuận An cho biết thêm, người Huế không bao giờ dám lấy một viên ngói hay gạch ở Hoàng cung về xây dựng nhà mình, bởi rất tôn trọng sự thiêng liêng. Khi chế độ phong kiến chấm dứt cho đến giai đoạn đất nước bị chia cắt, không ai dám phạm thượng tự ý ngồi lên ngai vàng, chứ chưa nói đến chuyện dịch chuyển đi nơi khác.
Nhận định về ngai vàng của triều Nguyễn được Nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia, ông Phan Thuận An nói: "Trên phương diện quốc gia, dân tộc thì việc công nhận cổ vật của phong kiến là xứng đáng. Vì dù sao đó cũng là một chứng nhân lịch sử, chứng kiến bao thế vinh của 13 vua triều Nguyễn".
Ngày nay, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế cho phục chế một số ngai vàng đặt ở bên trong Đại nội, lăng vua Tự Đức... để phục vụ du lịch, thu phí với những du khách muốn mặc áo hoàng bào chụp ảnh kỷ niệm.
Nguyễn Đông
Theo VNE
Nơi lưu giữ nhiều bảo vật quốc gia nhất cả nước Bảo tàng Lịch sử quốc gia (Hà Nội) là nơi lưu giữ, bảo quản 16 bảo vật quốc gia trên tổng số 104 bảo vật được Thủ tướng ký quyết định công nhận qua 4 đợt. Mộ thuyền Việt Khê làm bằng gỗ và đồng, dài 476 cm, rộng 77 cm, dày 60 cm, sâu 39 cm. Mộ được phát hiện tại công...