Chiếc tàu ngầm bị đắm tới hai lần của Liên Xô
K-429 được coi là chiếc tàu ngầm kém may mắn nhất của hải quân Liên Xô khi bị chìm đến hai lần chỉ trong vòng hơn hai năm.
Một tàu ngầm lớp Charlie của Liên Xô. Ảnh: History
Khi tàu ngầm K-429, chiếc thứ 10 thuộc lớp Charlie đề án 670, được biên chế cho hạm đội Thái Bình Dương của hải quân Liên Xô tại cảng Petropavlovsk vào tháng 9/1972, không ai nghĩ rằng nó sẽ trở thành chiếc tàu ngầm kém may mắn nhất với hai lần bị đắm, theo National Interest.
Với lượng giãn nước 4900 tấn, vận tốc 44 km/h, tàu ngầm K-429 trang bị tên lửa cận âm P-70 chứa một đầu đạn thông thường hoặc một đầu đạn hạt nhân có sức công phá 200 kiloton, tầm bắ.n hơn 56 km. Khả năng khai hỏa tên lửa từ dưới nước của tàu ngầm lớp Charlie luôn khiến các chiến lược gia NATO đau đầu.
Đến đầu năm 1983, tàu K-429 được đại tu tại cảng với các tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân và ngư lôi vẫn ở trên khoang, còn thủy thủ đoàn được cho nghỉ phép về thăm nhà.
Đúng lúc này, Mỹ huy động các cụm tàu sân bay chiến đấu và tàu chiến, máy bay, tàu ngầm tiến hành đợt tập trận hải quân lớn với các đối tác ở Bắc Thái Bình Dương. Căng thẳng gia tăng buộc hạm đội Thái Bình Dương Liên Xô ra lệnh đưa tàu ngầm K-429 quay trở lại trực chiến sớm hơn dự kiến, trước khi quá trình đại tu hoàn thành.
Lệnh đưa ra quá gấp khiến hạm trưởng Nikolai Suvorov không thể tập hợp được thủy thủ của tàu. Bộ chỉ huy huy động thủy thủ từ 5 tàu ngầm khác, trong đó nhiều người còn chưa quen với các hệ thống trên tàu K-429.
Họ chỉ được tập hợp đầy đủ ba giờ trước khi tàu ra khơi mà không có thời gian để kiểm tra hệ thống hay máy móc trên tàu. Chiếc tàu ngầm buộc phải khởi hành bất chấp sự phản đối của hạm trưởng Suvorov.
Hạm trưởng Suvorov không hề biết rằng hệ thống thông gió trên tàu ngầm đã để mở trong quá trình đại tu, thiết bị đo đạc trên tàu không được hiệu chỉnh chính xác, trong khi thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm về máy móc trên tàu hay phối hợp cùng nhau.
Ngày 24/6/1983, Suvorov ra lệnh cho tàu ngầm lặn thử nghiệm ở vịnh Sarannaya khi ở độ sâu 50 m, nhưng tàu nhanh chóng bị chìm do các thủy thủ không hiểu quy tắc vận hành bể dằn. Khi hệ thống báo động khẩn cấp trên tàu được kích hoạt, Suvorov ra lệnh cho nổ các bể dằn chính để tàu nổi lên, nhưng thay vì thổi khí vào bể dằn để đẩy nước ra, thủy thủ lại đưa thêm nước vào. Ngay sau đó, mọi hệ thống điện bị ngắt, phòng điểu khiển bị cô lập và nước biển tràn vào.
Công tác ứng phó sự cố trên tàu diễn ra chậm chạp do thủy thủ không có kinh nghiệm khiến 14 người thiệ.t mạn.g. Ngay sau đó, chiếc tàu ngầm chìm xuống đáy biển ở độ sâu 160 m.
Thế nhưng các thủy thủ không thả phao khẩn cấp để phát tín hiệu radio và thủy âm về đất liền để cầu cứu, vì lo sợ bị kỷ luật. Ban đầu, Suvorov hy vọng sở chỉ huy sẽ nhận ra việc tàu ngầm đang chìm dần, nhưng ông trở nên lo lắng hơn khi không nhận được tín hiệu phản hồi nào sau nhiều giờ.
Lúc này, một vài cục pin chính của tàu phát nổ, khiến nhiệt độ bên trong một số khoang tàu ngầm đã lên tới 120 độ C. Sau lời kêu gọi của các sĩ quan chỉ huy, hai thủy thủ tình nguyện thoát ra ngoài theo khoang chứa ngư lôi, bơi vào đất liền để báo cáo sự cố. Vài giờ sau, đội cứu hộ đến nơi, các thợ lặn mang theo đồ lặn vào trong tàu giúp thủy thủ thoát ra ngoài.
Video đang HOT
Ba tháng sau, Suvorov và một sĩ quan trên tàu bị bắt giữ, xét xử và kết án 10 năm tù do vi phạm các quy định của hạm đội. Có tất cả 16 thủy thủ thiệ.t mạn.g trong báo cáo về vụ ta.i nạ.n này được công khai trong thập niên 1990.
Tàu ngầm K-429 sau đó được trục vớt, sửa chữa và đưa trở lại biên chế. Tuy nhiên, tháng 9/1985, tàu lại bị chìm tại cảng làm một thủy thủ thiệ.t mạn.g. Nguyên nhân vụ chìm tàu lần hai vẫn chưa được làm rõ nhưng có vẻ khác với lần đắm trước.
Tàu K-429 sau đó tiếp tục được trục vớt nhưng không được điều ra biển nữa mà trở thành một tàu huấn luyện cho đến khi bị tháo dỡ cùng các tàu khác trong thập niên 1990.
Duy Sơn
Theo VNE
Chiến dịch "dùng đầu người Đức" giúp Mỹ vượt qua Liên Xô
Ngay sau Thế chiến 2, nước Mỹ và Liên Xô đã rơi vào cuộc cạnh tranh quyết liệt, tận dụng những bộ óc thiên tài Đức để giúp phát triển công nghệ quân sự.
Bộ óc Đức quốc xã giúp nước Mỹ lần đầu tiên chinh phục Mặt trăng năm 1969.
Khi phát xít Đức sụp đổ, Mỹ, Anh và Liên Xô đã mở cuộc truy lùng khắp lãnh thổ Đức nhằm thu thập những nghiên cứu phát triển công nghệ, bí mật quân sự và cả những bộ óc thiên tài của Đức Quốc xã.
Mục đích của chiến dịch hết sức rõ ràng, Mỹ muốn ngăn không cho Liên Xô và cả đồng minh Anh thu thập được các công nghệ quân sự, vốn mang tính đột phá của phát xít Đức lúc bấy giờ. Mỹ cũng muốn vô hiệu hóa năng lực phát triển quân sự Đức sau Thế chiến 2.
Chiến dịch Cái kẹp giấy
Văn kiện mật của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ ngày 6.7.1945 gửi Tổng thống Harry Truman, thuyết phục người đứng đầu nước Mỹ "thu nạp" những nhà khoa học Đức Quốc xã.
Giới chức Mỹ tin tưởng chiến dịch sẽ thu được thành công vang dội, đặc biệt trong bối cảnh, các nhà khoa học Đức bị truy lùng gắt gao vì tội ác chiến tranh.
Tổng thống Mỹ Harry Truman đồng ý triển khai Chiến dịch Cái kẹp giấy với điều kiện, không sử dụng những nhân vật má.u mặt trong chính quyền Đức quốc xã có liên quan đến các tội ác chiến tranh.
Tuy vậy, để chiêu mộ được những nhân vật xuất chúng nhất trong hàng ngũ Đức Quốc xã, chính quyền Mỹ đã không ít lần "phạm luật" hay thậm chí là Công ước Geneva năm 1929. Chính quyền Mỹ thay đổi lý lịch, tiểu sử của các nhà khoa học Đức để loại bỏ hoàn toàn mối liên quan giữa họ và chủ nghĩa phát xít.
Nhóm các nhà khoa học tên lửa Đức tại Fort Bliss, Texas.
Một khi lý lịch được "thanh tẩy", các nhà khoa học này được phép làm việc trong các dự án tối mật của Mỹ, được cấp quyền công dân Mỹ và sinh sống một cách bình thường.
Tên gọi Chiến dịch Cái kẹp giấy chính thức được sử dụng tháng 11.1945. Trong ngày 16.11.1945, 88 nhà khoa học Đức đã bí mật được đưa sang Mỹ với mục đích hỗ trợ trong việc phát triển công nghệ tên lửa.
Công nghệ Mỹ bắt nguồn từ bộ óc Đức Quốc xã
Trong cuốn sách "Operation Paperclip: The Secret Intelligence Program to Bring Nazi Scientists to America" (Chiến dịch Cái kẹp giấy: Chương trình tình báo bí mật đưa các nhà khoa học Đức tới Mỹ), tác giả Annie Jacobsen đã tiết lộ nhiều thông tin đáng giá. Nhà khoa học tên lửa Wernher von Braun, người đóng vai trò quan trọng trong chương trình phát triển tên lửa đạn đạo V-2 của phát xít Đức là nhân vật hàng đầu mà Mỹ muốn chiêu mộ. Khi đó, V-2 là tên lửa đạn đạo đầu tiên xuất hiện trong lịch sử.
Wernher von Braun là một trong những nhà khoa học Đức đến Mỹ đầu tiên, từ tháng 5.1945. Ngay khi đầu hàng, ông và các cộng sự được đón tiếp thịnh soạn tại một resort sang trọng ở dãy Alps.
"Chúng tôi được đối đãi bằng bữa sáng với trứng, cà phê và bánh mì, họ còn chuẩn bị sẵn giường ngủ ấm cúng cho mọi người. Ngay từ đầu, tôi biết mình sẽ không bị tr.a tấ.n hay đán.h đập", von Braun sau này kể lại cho nhà báo Mỹ. "Công nghệ tên lửa V-2 là thứ mà chúng tôi có, còn người Mỹ lại rất muốn sở hữu, muốn biết tất cả về loại tên lửa này.
Von Braun (giữa) khi còn phục vụ trong hàng ngũ Đức quốc xã năm 1942.
Ngoài ra, những người trong danh sách hàng đầu có Tiến sĩ Kurt Blome, chuyên gia về vũ khí hóa học, sinh học. Trong quá trình thẩm vấn, Blome thừa nhận đã thí nghiệm vũ khí giế.t ngườ.i hàng loạt trên các nạ.n nhâ.n là người Do Thái. Tuy nhiên, người Mỹ có vẻ không quan tâm đến tội ác này.
Georg Rickhey, chuyên gia xây dựng hầm ngầm không thể bị xuyên phá của phát xít Đức cũng rơi vào tay quân đội Mỹ. Đại tá Mỹ Peter Beasley nói với Rickhey: "Với tư cách là sỹ quan Mỹ, tôi muốn đất nước mình có được mọi kiến thức mà ông dày công nghiên cứu. Tôi đề nghị ông cùng đi với chúng tôi trở về Mỹ".
Cho đến tháng Giêng năm 1946, hơn 160 nhà khoa học Đức cùng với gia đình đã bí mật sang Mỹ làm việc và sinh sống. Một số sống tại cơ sở đặc biệt ở Dayton, Ohio. Các nhà khoa học quân sự Mỹ tỏ ra không thích thú với đồng nghiệp Đức mới đến, bày tỏ cảm xúc từ "giận dữ đến thất vọng".
Nhóm 115 nhà khoa học Đức nằm trong nhóm nghiên cứu về tên lửa được đưa đến Fort Bliss, Texas và Bãi thử Tên lửa White Sands, New Mexico với tư cách "chuyên viên Bộ Chiến tranh". Họ có nhiệm vụ giúp quân đội Mỹ thử nghiệm tên lửa.
Von Braun cầm trên tay mô hình tên lửa tại Lầu Năm Góc năm 1955.
Wernher von Braun là người được đối đãi tốt nhất, ông còn bày tỏ tình yêu với nước Mỹ. Ở tuổ.i 46, von Braun được phép trở về Đức, cưới phụ nữ 18 tuổ.i và đưa cô này đến Mỹ. Điều duy nhất von Braun không hài lòng là người Mỹ quá chặt chẽ trong việc cấp ngân sách nghiên cứu. So với hồi làm việc cho Đức quốc xã, nhà khoa học này và cộng sự được trao nhiều quyền hơn.
Vài năm sau chiến tranh, số lượng nhà khoa học Đức sang Mỹ đã lên tới con số 1.600 người. Trong nỗ lực ngăn không cho dư luận biết được chính xác những gì xảy ra, quân đội Mỹ ra thông cáo tuyên bố đây là những người đàn ông hòa nhã, với mái tóc bạc và áo khoác thể thao Mỹ. Những người này chưa từng nằm trong hàng ngũ Đức quốc xã.
Quân đội cũng công bố hình ảnh nhà khoa học Đức và gia đình tham gia hoạt động ngoài trời lành mạnh. Bất kỳ phóng viên nào muốn phỏng vấn họ phải gửi bản thảo trước, cần có sự cho phép của quân đội trước khi xuất bản trên báo.
Von Braun giải thích chi tiết hệ thống phóng tên lửa Saturn cho Tổng thống Mỹ John F. Kennedy năm 1963.
Không phải ai cũng dễ dàng bị lừ.a gạ.t, cựu Đệ nhất phu nhân Mỹ Eleanor Roosevelt phản đối chương trình này, giống như nhà khoa học thiên tài Albert Einstein. Cho đến tháng 3.1947, dư luận lớn đến mức Tham mưu trưởng quân đội Mỹ, Tướng Eisenhower khi đó phải tổ chức cuộc họp báo diễn giải về Chiến dịch Cái kẹp giấy.
Thành tựu của Chiến dịch Cái kẹp giấy là không phải bàn cãi. Von Braun sau này trở thành Giám đốc Trung tâm Phi hành Vũ trụ Marshall thuộc NASA và là người thiết kế chính của tên lửa đẩy Saturn V, loại tên lửa sau này đã giúp Mỹ lần đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng và chiếm ưu thế trong cuộc chạy đua không gian so với Liên Xô, trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh.
Năm 1963, von Braun còn có mặt để giải thích chi tiết hệ thống phóng tên lửa Saturn cho Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tại Trạm Không quân Mũi Canaveral, Florida. Heinrich Rose và Konrad Buttner, hai nhân vật ủng hộ Đức quốc xã nhất giúp nghiên cứu công nghệ giúp bảo vệ binh sĩ Mỹ trong môi trường chiến tranh hạt nhân.
Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu nhận định, sức mạnh quân sự Mỹ vượt trội hơn Liên Xô sau Thế chiến 2 ngoài yếu tố địa lý, còn có đóng góp không nhỏ của các bộ óc thiên tài Đức.
Theo Đăng Nguyễn - Tổng hợp (Dân Việt)
Những chuyến do thám của MiG-25 Liên Xô khiến Israel bất lực Tiêm kích MiG-25 của Liên Xô đã tiến hành nhiều chuyến bay do thám trong sự bất lực của chiến đấu cơ và hệ thống phòng không Israel. Chiếc MiG-25RB tại căn cứ Cairo-West vào năm 1971. Ảnh: Key Publishing. Trong giai đoạn 1967-1971, Liên Xô đã xây dựng Không quân Ai Cập thành một lực lượng đáng gờm tại Trung Đông. Tuy...