Chỉ huy hậu cần Điện Biên Phủ: Chuyện 60 năm mới kể
Để theo sát việc cung ứng hậu cần toàn chiến dịch Điện Biên Phủ, vị Chủ nhiệm hậu cần liên tục phải đi lại trên địa bàn chiến trường núi non trải rộng. Vì quá mệt, hễ leo lên xe là ông ngủ gà ngủ gật, bất kể lên dốc xuống đèo. Xe không có cửa, lái xe phải lấy dây buộc chặt ông vào ghế.
Sinh thời, Chu nhiêm hâu cân chiên dich Điện Biên Phủ, ông Đăng Kim Giang, rất ít kể về mình, dù ước nguyện cuối cùng của ông trước khi nhắm mắt là được đeo trên ngực tấm “Huy hiệu Chiến sỹ Điện Biên”.
Bộ chỉ huy kiêm Đảng ủy mặt trận Điện Biên Phủ họp tại sở chỉ huy Mường Phăng. Từ trái sang phải: Chủ nhiệm Cung cấp Đặng Kim Giang, Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Tư lệnh kiêm Bí thư Võ Nguyên Giáp. (Ảnh VNTTX).
Cứ tưởng là người phụ trách dân công
Năm nay, ngày giỗ của ông Đặng Kim Giang trùng với dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (ĐBP). Du năm nay, ngươi ban đơi cua vi chi huy hâu cân chiên dich ĐBP năm xưa đa 96 tuôi va phai ngôi xe lăn, con chau cua ông vân cô đưa ba tơi đê thăp hương tương nhơ ông. Như moi lân, ba lai khoc. Chi co điêu, năm nay ba noi: “60 năm rôi ông a, cac con cua ông đa lơn, đa trương thanh, ky niêm chiên thăng Điên Biên Phu năm nay, chung no đa tim lai ban be ông năm ây đê nghe lai chuyên xưa…”.
Đăc biêt, dự ngày giỗ năm nay có hai vị khách đặc biệt: ông Nguyễn Bội Giong và ông Đỗ Ca Sơn, những chiến sĩ từng trực tiếp tham gia chiến dịch ĐBP 60 năm về trước.
Nhang vưa thăp lên thi trơi mưa. Khi các vị khách đến chào và “báo cáo” với người đồng đội, người cấp trên cũ của mình thì cả không gian mênh mông của nghĩa trang như dồn nén vào khu mộ đơn sơ có ngôi mộ chí với tấm bia đề Thiếu tướng Đặng Kim Giang…
Tro chuyên vơi hai cưu chiên binh ĐBP, nhưng ky ưc xúc động vê ngươi chi huy hâu cân lại ua vê, trong đo co nhưng chi tiêt ma gia đinh Tương Đăng Kim Giang cung chưa bao giơ đươc nghe.
Ông Nguyễn Bội Giong, từng là Bí thư quân sự của Tham mưu trưởng chiến dịch, năm nay đã 90 tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn, lời nói khúc chiết, rõ ràng. Ông Bội Dong khẳng định đã thường xuyên gặp gỡ ông Giang trong những ngày tháng cam go nhât của chiên dich ĐBP. Ông kể rành rọt về sự kiện 26/1/1954, tại cuộc họp Đảng ủy mặt trận, Tướng Giáp đã đưa ra “quyết định khó khăn nhất trong đời”: Thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” và ra lệnh toàn mặt trận hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lui về địa điểm tập kết xây dựng trận địa kiên cố để đánh dài ngày, tất cả lực lượng pháo binh kéo trở lại vị trí tập kết ban đầu.
Từ chuyện thay đổi cách đánh, ông Giong dẫn đến chuyện ông Đặng Kim Giang – Chủ nhiệm hậu cần chiến dịch, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp tiền phương. Ông Giong nhớ lại, khi nhận lệnh chuyển sang phương án tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” co nghia la hâu cân phai đáp ứng nhu cầu của bộ đội trong 3 đêm 2 ngày sang một chiến dịch kéo dài cả vài tháng trời. Thê là cả một núi việc ập đến.
Điều hành hơn 33.000 dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong để vận chuyển hơn 20.000 tấn hàng hóa vượt hàng trăm kilomet đường núi dưới bom đạn, phục vụ cho gần 54.000 bộ đội chiến đấu trên một địa bàn rộng 120km2 là một nhiệm vụ tưởng như khó có thể làm được. Đây cũng là chiến dịch đầu tiên huy động hàng trăm xe ô tô làm lực lượng vận tải chủ lực. Phải tổ chức bố trí xăng dầu, trạm sửa chữa, cung tuyến vận tải, tổ chức kho, rải trạm vận tải, kết hợp với những phương thức vận chuyển cổ truyền hơn như xe đạp thồ, hay sáng tạo mới như mở đường sông vận chuyển hàng, tổ chức các hình thức vân tai đa dang ma ngươi thơi nay kho hinh dung đươc. “Ông Giang bàn bạc với các cán bộ địa phương tổ chức huy động lương thực, thực phẩm tại chỗ. Cứ ngỡ là vùng núi, đồng bào dân tộc nghèo khổ rất khó huy động, nhưng kết quả lại rất tốt. Chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được 6.000 tấn gạo thịt, hiệu quả rất cao vì không phải nuôi dân công dọc đường vận chuyển dài.
Chủ nhiệm hậu cần chiến dịch Đặng Kim Giang (ngoài cùng bên phải) họp tại Sở chỉ huy chiến dịch. (Ảnh trong phim tài liệu của Cacmen).
Trong ký ức của ông Giong, Chủ nhiệm hậu cần Đặng Kim Giang là chỉ huy có bản lĩnh, tài đức, sáng tạo. “Chẳng thấy khi nào ông ấy phàn nàn. Khó mấy vẫn lặng lẽ làm. Vì phải bảo đảm hậu cần trải rộng trên khắp địa bàn nên ông ấy phải liên tục đi công tác… Mỗi khi gặp ông xuống từng đơn vị kiểm tra, chỉ đạo, thoạt trông cứ ngỡ là một đồng chí cán bộ phụ trách dân công. Chỉ huy Sở Hậu cần nằm gần tuyến vận chuyển, xa khỏi Sở Chỉ huy chiến dịch. Ngay tại Sở Chỉ huy cũng gắn với bộ phận của Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Lai Châu. Làm thì phối hợp với đồng chí, nhân dân nhưng khi đi công tác thì lặn lội một mình. Khi ông đến Sở Chỉ huy, chào hỏi xong là vào bàn luận với ông Thành (Hoàng Văn Thái – Tham mưu trưởng chiến dịch), rồi qua báo cáo anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), xong lại một mình ra đi. Ông ây không co thư ky giup viêc nên đi đâu cung chỉ môt minh…”, ông Giong kể lại.
Chuyện này, các con cháu trong nhà đã được chú Việt, lái xe cho ông kể lại. Rằng để theo sát việc cung ứng hậu cần toàn chiến dịch trong điều kiện thông tin liên lạc khó khăn, địa bàn chiến trường trải rộng, nhiều ngày đêm chú phải lái xe đưa ông đi đốc chiến tại các cung đường giao thông, các kho đạn, bệnh viện dã chiến… bằng chiếc xe Jeep lấy được của địch. Vì quá mệt, hễ leo lên xe là ông Giang ngủ gà ngủ gật bất kể đường xóc, ngoằn nghèo lên dốc xuống đèo, mưa rừng hay nắng bụi. Xe mui trần, không có cửa, chú lấy dây buộc chặt ông vào ghế để thủ trưởng ngủ, chỉ tháo ra khi đến nơi hoặc khi bị máy bay tấn công.
Lo quân lương đạn dược… và cả vải liệm cho liệt sĩ
Người khách đặc biệt thứ hai trong buổi lễ hôm đó là ông Đỗ Ca Sơn. 60 năm trước, ông mới 23 tuổi, là chiến sĩ trung đoàn 174, Đại đoàn 316, chiến đấu suốt 38 ngày đêm trên đồi A1.
Video đang HOT
Ông kể rằng, những người đồng đội còn sống sót của Trung đoàn 174 khi ấy, giờ đây tuổi đều đã ngoại bát tuần, vẫn còn điều khắc khoải vì thấy những người như ông Giang và những chiến sỹ hậu cần, công lao thì thật lớn mà vắng bóng: “Anh em chúng tôi truyền rằng trong chiến dịch ĐBP, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ba người phó đều tài ba, như ba cánh tay, mà đều mạnh như cánh tay phải. Vì thế nên thắng lợi mới lớn đến vậy. Công lao của họ lớn lắm. Phải nói rõ điều này với mọi người”.
Đã nhiều năm, ông và anh em cựu binh Điện Biên tìm mọi cách liên lạc với các thành viên trong gia đình chi huy hâu cân Đăng Kim Giang và đến hôm nay ông đã toại nguyện. Ông nói rằng, thật cảm động khi được đến tham gia nghi lễ viếng mộ Chủ nhiệm Hậu cần Đặng Kim Giang để nói lên những lời tri ân của mình, nói lên suy nghĩ của những người lính dưới chiến hào về những người phục vụ công tác hậu cần ở chiến dịch ĐBP.
Ông noi răng, chuyện hâu cân ơ ĐBP không chi la lo ăn, lo măc…. “Mà trong trận đánh đồi A1, bộ đội ta thương vong nhiều quá. Bị thương thì phải có người tải về tuyến sau, còn anh em hy sinh thì phải khâm liệm rồi chôn cất tại chỗ. Chiến sỹ hậu cần không chỉ có lo cơm ăn, áo mặc, lo đạn dược mà phải lo bao thứ khác. Như lo đủ hàng vạn cuốc xẻng cho bộ đội đào hầm, đào hào vây lấn ròng rã suốt hai tháng trời, lo thuốc men cho thương binh và phải lo chuẩn bị đủ cả vải liệm cho liệt sĩ. Đây là cái lo đau đớn nhất. Nào ai dự trù được vải liệm mà chuẩn bị. Có đêm, đơn vị hàng trăm người hy sinh thì lấy đâu ra vải liệm. Chung tôi biêt ông Giang vât va va khô tâm lăm…” – ngươi linh gia 83 tuôi khoc nâc lên khiên chung tôi không câm đươc nươc măt.
Chủ nhiệm hậu cần chiến dịch Đặng Kim Giang (thứ 3 từ trái sang), đồng chí Việt lái xe (thứ 4 từ trái sang) và các chiến sỹ trên chiến trường Điện Biên Phủ sau ngày chiến thắng.
Hãy làm điều gì đó để tri ân
Trải qua biến cố phi thường và sau đó là những ngày tháng gian lao cùng cực, người vợ hiền và 7 người con của ông Giang vẫn giữ vững niềm tin và phấn đấu vươn lên… Thay mặt gia đình, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, người con trai thứ 5 của ông, nay là Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp nông thôn, cảm ơn những người đồng đội cũ của cha về những câu chuyện về cha mình mà lần đầu tiên cả nhà mới được nghe.
Hóa ra, sinh thời, ông Giang rất ít kể về mình, kể về những ngày gian lao và vinh quang ở ĐBP. Mặc dù ước nguyện cuối cùng trước khi ông nhắm mắt là được đeo trên ngực tấm “Huy hiệu Chiến sỹ Điện Biên”. Cả hai người lính già Nguyễn Bội Giong và Đỗ Ca Sơn đều mong muốn gia đình thu thập tư liệu, gặp gỡ nhân chứng… để có thể làm điều gì đó tri ân Thiếu tướng Đặng Kim Giang và bày tỏ, nếu cần gì thì các “thân già” đều sẵn sàng hỗ trợ…
Thiếu tướng Đặng Kim Giang tên thật là Đặng Rao, quê tại xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội từ năm 1928. Năm 1930, ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Bị thực dân Pháp kết án 12 năm tù giam, giam tại các nhà lao: Hoả Lò, Hoà Bình, Sơn La. Ông vượt ngục Sơn La, tiếp tục hoạt động xây dựng phong trào cách mạng, tham gia chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh Hà Đông năm 1945, sau đó trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Đông, Phó Bí thư Tỉnh uỷ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sau: Ủy viên Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Khu 2, Phó bí thư khu ủy Khu 2, Thường vụ khu ủy, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 3, Phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Liên khu 3. Năm 1949, ông chuyển sang quân đội. Năm 1951, ông là Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, tham gia các chiến dịch Thượng Lào, Biên Giới, Hòa Bình, Tây Bắc, Hà Nam Ninh. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông là Chủ nhiệm hậu cần, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp tiền phương, là một trong bốn thành viên của Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ. Năm 1954, ông là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam, Ủy viên Quân ủy Trung ương. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1959 – 1960 ông giữ cương vị Quyền Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Ông mất năm 1983.
Theo Khampha
Hậu cần Điện Biên Phủ: Xe thồ đối đầu cầu hàng không
Hậu cần phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ là hậu cần sáng tạo. Trong những thời điểm khó khăn nhất cũng là lúc quân và dân ta tìm ra trăm nghìn cách để vượt qua.
Thách thức của tướng Pháp
Khi chọn Điện Biên Phủ (ĐBP) làm tập đoàn cứ điểm nhằm nhử chủ lực của Việt Minh đến để đánh một đòn quyết định, tướng Navarre và giới quân sự Pháp, Mỹ đã dựa trên những nhận định khá khách quan về tương quan lực lượng đôi bên.
Theo đó, quân Pháp không những nắm ưu thế tuyệt đối về hỏa lực cả dưới đất lẫn trên không, về khả năng cơ động, về hệ thống công sự vững chắc, mà còn bởi khả năng đảm bảo hậu cần vượt trội.
Vấn đề tiếp tế hậu cần cho 16.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ có thể khắc phục được nhờ sự chi viện bằng cầu hàng không thông qua hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, cùng với đó là hệ thống cầu hàng không quốc tế nối từ sân bay Cát Bi, Gia Lâm đến các căn cứ hậu cần của Mỹ đóng ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Philippines.
Trước và trong thời điểm diễn ra chiến dịch, Pháp đã huy động (cộng với sự tham gia của Mỹ) có khoảng 100 máy bay vận tải C-47 Dakota, 16 máy bay vận tải C-119, 48 máy bay ném bom B-26 Invander, 8 máy bay ném bom Privater, 227 máy bay không đối đất (cường kích) loại F6F Hellcat, F8F Bearcat và F4U Corsair...Trung bình mỗi ngày có gần 100 lần chiếc máy bay vận tải tiếp tế khoảng 200 - 300 tấn hàng, và thả dù khoảng 100 - 150 tấn cho Điện Biên Phủ.
Hội nghị Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch tại Mường Phăng (Sở chỉ huy cuối cùng) hạ quyết tâm tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 22/4/1954... Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Đặng Kim Giang.
Cũng theo tính toán của các chỉ huy quân đội Pháp, Việt Minh phải đối phó với một nhiệm vụ bất khả thi: làm thế nào để đảm bảo đủ quân lương, đạn dược cho các đại đoàn chủ lực và cả người phục vụ với số lượng gấp bốn lần quân Pháp mà phương tiện vận chuyển tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men chủ yếu bằng gánh bộ, xe đạp thồ...
Từ trung tâm hậu phương kháng chiến đến Điện Biên Phủ gần 500km, từ các vùng hậu phương Liên khu 3 như Ninh Bình, Liên khu 4 như Thanh Hóa, Nghệ An đến Điện Biên Phủ 600 đến 700 km. Với khoảng cách xa hậu phương như vậy Việt Minh không thể đưa pháo lớn vào Điện Biên Phủ, không thể đóng quân được lâu khi mùa mưa đến, dân công khuân vác gạo từ hậu phương lên đến Điện Biên Phủ theo đường mòn luồn rừng, leo núi, họ vừa đi vừa ăn dọc đường đến nơi gần như hết sạch, hoàn toàn uổng công.
Trong khi đó, Pháp dựa vào lợi thế làm chủ bầu trời, dùng lực lượng không quân oanh tạc "40 điểm có thể cắt đứt" trên các tuyến đường lên mặt trận, hệ thống vận tải của đối phương sẽ bị ngăn chặn.
Cân nhắc thuận lợi, khó khăn của hai bên, Cơ quan tham mưu cua Navarre ở Sai Gon nhận định: Viêt Minh không thê duy tri ở thương du qua 2 đai đoan va 20.000 dân công, sư bâp bênh vê giao thông không cho phep ho mang tơi đo phao trên 75 ly cung vơi đan phao qua 7 ngay chiên đâu. Từ đó, Bộ Chỉ huy Pháp quyết định gửi lời thách Việt Minh đối đầu trận quyết định ở Điện Biên Phủ và tin rằng phần thắng chắc chắn thuộc về phía họ.
Câu trả lời của Việt Minh
15 ngày sau khi quân Pháp nhẩy dù xuống Điện Biên Phủ, ngày 6 tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nghe Tổng Quân ủy báo cáo quyết tâm và phương án tác chiến. Báo cáo của Tổng quân ủy nêu rõ: "Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước đến lúc này... Để tiến hành chiến dịch rất lớn này, ta có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là cung cấp, chủ yếu là vấn đề đường sá.
Bộ Chính trị phân tích: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh của địch, nhưng có cái yếu cơ bản là bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế đều dựa vào đường không. Về phía ta, với chất lượng được nâng cao trong chỉnh huấn, chỉnh quân, với kinh nghiệm sẵn có và sự tiến bộ về trang bị kỹ thuật, quân đội có thể đánh được tập đoàn cứ điểm. Với quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả nước sẽ tập trung toàn lực chi viện cho tiền tuyến và nhất định đảm bảo cung cấp cho chiến dịch.
Từ đó, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Tổng Quân ủy và chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và ra quyết định thành lập Đảng ủy, Bộ Chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy trưởng mặt trận. Các đảng ủy viên mặt trận gồm: Phó Tổng tham mưu trưởng Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng; Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Liêm- Chủ nhiệm chính trị; Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Đặng Kim Giang- Chủ nhiệm hậu cần.
Sau khi Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập, Tổng cục Cung cấp quyết định tổ chức Tổng cục Cung cấp tiền phương do Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Đặng Kim Giang phụ trách, Cục trưởng Cục Quân nhu Nguyễn Thanh Bình làm phó và đồng chí Nguyễn Ngọc Minh làm tham mưu kế hoạch hậu cần. Các cục đều cử một một cục phó và một số cán bộ có kinh nghiệm đi chiến dịch.
Hậu cần sáng tạo
Tại cuộc họp Đảng ủy, Bộ chỉ huy QĐNDVN sáng 26 tháng 1 năm 1954 tướng Giáp quyết để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là "đánh chắc thắng", cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc".
Từ chỗ chiến dịch dự kiến diễn ra trong ba ngày hai đêm, nay phải kéo dài hàng vài tháng trời, nhu cầu lương thực, đạn dược, thuốc men và tất cả các loại nhu yếu phẩm tăng lên gấp nhiều lần. Nguồn cung thiếu, con đường vận chuyển càng khó khăn trong mùa mưa, lại bị máy bay địch liên tục dội bom... công tác bảo đảm hậu cần đứng trước một thử thách cao hơn cả những ngọn núi vùng Tây Bắc.
Xe đạp thồ hàng ra chiến trường
Vấn đề bảo đảm hậu cần cho chiến dịch Điện Biên Phủ đã trở thành nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Để thực hiện quyết tâm giành toàn thắng cho chiến dịch Bộ Chính trị ra chỉ thị "Toàn Đảng, toàn dân tập trung toàn lực chi viện cho tiền tuyến". Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp mặt trận các cấp. Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh được cử vào Thanh Hóa đôn đốc huy động nhân lực, vật lực. Tổng quân ủy phân công Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Trần Đăng Ninh phụ trách toàn bộ vấn đề đường sá, tiếp tế cung cấp của mặt trận Điện Biên Phủ.
Thế trận hậu cần được hình thành: "Hội đồng Cung cấp mặt trận" có trách nhiệm tiếp nhận nguồn chi viện của hậu phương chuyển lên các tổng kho căn cứ của "Hậu cần tiền phương" chia thành ba tuyến hậu cần bảo đảm: Tuyến Sơn La, Lai Châu chuyển tới Tuần Giáo; Tuyến Tuần Giáo, Km62 đường 43 chuyển vào trận địa; Tuyến hỏa tuyến từ Km62 chuyển đến các chiến hào của từng đại đoàn.
Khó khăn nổi trội lúc này là khâu vận tải. Đường cơ giới từ hậu phương hầu như không có, lại bị địch liên tục thả bom phá, bom nổ chậm, bom bươm bướm hủy hoại. Thêm vào đó, bước sang tháng 4, những trận mưa đầu mùa làm cho đường lầy lún, sụt lở càng gây thêm nhiều khó khăn cho lực lượng vận tải.
Trong những thời điểm khó khăn nhất cũng là lúc quân và dân ta tìm ra trăm nghìn cách để vượt qua. Hậu cần phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ là hậu cần sáng tạo. Tuyến Sơn La tắc thì ta khắc phục bằng cách mở rộng tuyến đường Mường Luân- Nà Sang, khai thông tuyến Nậm Cún- Lai Châu. Đường bộ khó thì tăng cường vận chuyển bằng bè mảng. Vận chuyển từ xa vừa ít hiệu quả và chậm thì tăng cường hậu cần tại chỗ. Lương thực, đạn dược thuốc men của ta thiếu thì tổ chức giành giật của địch...
Các phương thức và phương tiện vận chuyển được huy động tối đa với 628 ô tô, 140 ca-nô, 20.991 thuyền, 500 ngựa, 21.000 xe đạp thồ, 11.600 bè mảng, chưa kể lực lượng dân công gánh gồng. Tuy nhiên, vấn đề chính không phải là số lượng phương tiện mà là ở chỗ cách thức tổ chức đội quân "thồ" đó. Điện Biên Phủ là một chiến dịch độc nhất vô nhị trong lịch sử khi có đoàn xe thồ vận tải đông đảo và được tổ chức tốt đến vậy. Kỷ lục chở hàng của một xe thồ trên quãng đường dài ở địa hình rừng núi được xác lập là 352 kg, cũng có thể đưa vào sách Guiness.
Vượt qua khó khăn, trở ngại, quân và dân ta bằng sự nỗ lực phi thường quyết tâm bảo đảm cung cấp một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, đồ dùng, thuốc men một cách nhanh chóng, liên tục trong một thời gian dài cho chiến dịch. Đặc biệt, việc tiếp tế cần được giữ bí mật ở mức cao nhất nhằm tránh địch phát hiện và đánh phá.
Tổng kết lại, trong chiến dịch Điện Biên Phủ quân và dân ta đã huy động toàn bộ lực lượng đảm bảo cho hơn 87.000 người, trong đó lực lượng chiến đấu là 53.830 người và dân công là 33.300 người. Khối lượng vật chất phục vụ chiến dịch trên 20.000 tấn trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14. 950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác. Đây là một kỳ tích.
Sau này khi tổng kết về chiến thắng của QĐNDVN tại Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh và các nhà nghiên cứu của hai bên đều thống nhất được với nhau: một nguyên nhân chính làm nên chiến thắng của QĐNDVN tại trận đánh này là đã huy động được rất lớn nguồn sức người để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, một việc mà Pháp cho rằng không thể giải quyết được.
Máy bay B26 của Pháp bay đi ném bom xuống Điện Biên Phủ
Quân Pháp lên máy bay đến Điện Biên Phủ từ sân bay Cát Bi
Máy bay thả quân dù xuống Điện Biên
Máy bay C47 Dacota chuyển hàng xuống căn cứ
Thuyền trở hàng từ khu 4 ra.
Đoàn ngựa thồ vận tải cho bộ đội
Ô tô vận tải trên đường chiến dịch
Theo Khampha