Chị dâu quá ‘lạm quyền’
Tự vấn “Ác mộng sống với em chồng” đã nhận được khá nhiều phản hồi từ phía bạn đọc. Eva xin được trích đăng tâm sự trái chiều của một cô em chồng với tựa đề: Chị dâu quá ‘lạm quyền’.
Tôi thật sợ khi chị dâu là người như thế (ảnh minh họa)
Tôi lên Hà Nội học từ năm 2008 ở cùng gia đình anh trai trong căn nhà tập thể. Thú thực bố mẹ tôi chỉ chu cấp tiền học phí 2 đợt trong năm còn đâu tiền ăn uống, chi tiêu lâu nay chủ yếu tôi “ăn bám” của anh chị.
Biết phận mình, tôi cũng chăm chỉ, chịu khó nấu cơm, lau nhà, giặt đồ, trông cháu để đỡ đần chị dâu. Trước khi tôi đến thì nhà anh chị thuê ô sin. Nhưng khi có tôi thì chị dâu cho ô sin nghỉ hẳn để tôi làm thay những việc ấy. Ở quê còn vất vả hơn nhiều nên việc nhà tôi thấy cũng không nặng nhọc lắm.
Cái làm tôi buồn lòng là mỗi lần tức tối là chị dâu lại mắng cả nhà chứ chẳng nói riêng ai. Tôi thấy cũng hơi chột dạ vì chị dâu thường nói “một lũ ăn hại” hay “cái nhà này ăn bám vào thân con này”. Cứ bữa nào chị la lối là xem như hôm ấy cả nhà chẳng ai nuốt nổi cơm.
Video đang HOT
Anh trai là kỹ sư công nghệ thông tin, tiền lương được bao nhiêu anh đều đưa hết cho chị dâu giữ. Ngoài ra anh cũng làm thêm để tăng thu nhập. Nhưng dường như với chị dâu thì bằng ấy là chưa đủ. Chị ăn mặc đẹp, chải chuốt chứ ít khi chú ý đến việc nhà. Sau buổi làm chị chẳng về nhà ngay mà còn đến các tiệm làm đầu hay đắp mặt nạ làm đẹp và mua sắm. Về đến nhà mà cái gì thấy không ưng ý là chị quát tháo ầm ĩ khiến tôi cứ núp dưới bếp. Lúc thì chị gắt gỏng nhà cửa bề bộn, con cái nghịch ngợm và chung quy lại là vô tích sự hết.
Chị dâu cũng thường xuyên xúc phạm anh trai. Chị cứ chê anh thu nhập thấp chẳng bằng người này người nọ, nhiều khi rất vô lý mà anh chỉ im lặng. Có khi chị mắng anh trai rồi còn bóng gió mắng luôn cả bố mẹ tôi ở quê nữa. Anh trai tát chị dâu một cái thế là chị khóc òa lên và dọa sẽ “lành làm gáo, vỡ làm môi” hết. Đó chẳng còn là chuyện lạ nữa. Nhiều hôm cả nhà phải bỏ cơm vì chị dâu mắng mỏ tùm lum. Hai đứa cháu thì sợ mẹ nên chẳng dám lại gần.
Anh trai đi làm tối ngày nên ít quan tâm đến chuyện nhà. Chị dâu cũng giao luôn việc trông nom và đưa đón các cháu đi học (1 cháu học lớp 3 và cháu mới 5 tuổi) cho tôi.
Tôi sống phụ thuộc nhiều nên chẳng dám hé răng cãi lại mỗi khi chị dâu nặng lời. Nhưng chị ngày càng lấn lướt, lạm quyền chẳng xem ai ra gì. Mỗi lần tôi xin phép được ra trọ bên ngoài thì chị dâu hằn học: “Cô ở nhà này khổ lắm sao mà bỏ đi để họ hàng ở quê vu cho chị sống ác?”.
Tôi cũng đi làm thêm như gia sư để thi thoảng đóng tiền ăn nhưng chị dâu đều gạt đi là không cần. Nhưng cứ đụng đến thiếu thốn và khi thanh toán chi tiêu chị lại than thở, cằn nhằn nên đưa miếng cơm lên miệng tôi thấy đắng cả họng và nhục nhã vô cùng.
Sau này thì tôi biết chị dâu có bồ. Anh chị đã cãi vã rất to. Anh trai đã không thể chịu đựng được điều nhục nhã ấy nên đòi ly hôn, chị dâu lại cầu xin tha thứ. Sống gần 3 năm cùng anh chị, dù đã chứng kiến biết bao nhiêu điều không hay ở chị nhưng khi nghe gia đình anh chị trên bờ vực tan vỡ, lòng tôi xót xa vô cùng.
Từ ngày chuyện chị dâu ngoại tình bị vỡ lở thì anh trai ôm gối ra phòng khách ngủ, có đêm còn ngủ luôn tại cơ quan. Bữa cơm tối vì thế chỉ có tôi và hai đứa cháu ăn là chính. Còn chị dâu vốn xưa nay ít chú ý đến con cái, nhà cửa nên giờ càng thờ ơ hơn. Tôi ôm hai cháu ngủ và luôn cầu mong cho chuyện tồi tệ sẽ không bao giờ xảy ra với gia đình nhỏ của anh chị. Tôi rất lo lắng nếu hai người họ ly hôn thật thì các cháu tôi sẽ sống ra sao?
Mới tuần trước, anh chị lại cãi vã rất to. Hai người đã kí vào đơn ly hôn, đó là lần đầu tiên tôi thấy anh khóc. Tôi không thể ngờ người anh trai mà tôi tôn thờ lại trở nên yếu đuối, hèn kém đến vậy. Tôi trách anh đã nhu nhược nên không làm chủ được gia đình và giận chị dâu sao quá “lạm quyền” để đến mức phải đưa nhau ra tòa.
Theo Eva
Nhớ tiếng gọi đò
Nhà tôi ở bờ Bắc sông Vu Gia (Quảng Nam), còn huyện lỵ nằm phía bờ Nam nên chuyện đi lại khó khăn thập phần, nhất là vào mùa mưa lụt. Trước năm 1995, học sinh cấp 3 (thời của tôi là cấp 2) quê tôi phải ở trọ nhà bà con hoặc quen biết bên bờ Nam chứ không thể đi về hằng ngày được bởi đò giang cách trở.
Mỗi làng có dăm ba ngôi nhà ngói là nhiều, trong đó phân nửa là nhà ngói quà (mái lợp ngói, vách bằng phên tre trét cứt trâu), còn lại là nhà tranh, phên tre, cột bằng gốc tre. Nhà nào có được cái chuồng cu (4 cây cột gỗ ghép mộng xuyên trính ở gian giữa), còn lại là tranh tre đã thuộc vào hạng khá giả. Đò ngang là chiếc ghe đan trét dầu rái. Người chèo đò là dân vạn chài ven sông. Người trong làng đi đò không phải trả tiền, tới mùa họ đến nhà lấy lúa. Tôi không nhớ bao nhiêu song nghèo cả làng, cả xã chắc họ cũng nghèo theo. Mấy người con gia đình vạn chài đi học với tôi hồi nhỏ, dường như tới lớp ba rồi nghỉ. Tôi biết tóm lưỡi câu, cắm câu là nhờ những người bạn ấy.
Ảnh : TRẦN CHÍ KÔNG
Sau ngày giải phóng, người dân vạn chài ở quê tôi được cấp đất ruộng như người trên bờ nên cuộc sống họ dần dần khá lên nhờ có thêm nghề làm cá và đưa đò. Mưa ở quê tôi cứ sùi sụt suốt ngày nên đường lầy lội, có nơi bùn ngập ống quyển. Hồi nhỏ, mẹ tôi phải nhờ mấy anh lớn hơn trong xóm cõng giúp khi tôi đi học mà gặp phải những chỗ bùn sâu. Hòa bình lập lại, đường làng quê tôi cũng thế. Và đến thời điểm ấy, tôi mới hiểu thế nào là "mưa đen trời thối đất". Bây giờ, mỗi lần nghĩ về quê nhà, tôi vẫn nhớ đến những mái nhà tranh với khói lam chiều, nhớ những ngày "mưa đen trời thối đất", nhớ gian bếp nhà ai trong mùa mưa lụt vừa để nấu ăn vừa chất củi rều (những cành khô trôi từ thượng nguồn xuống) xung quanh ông kiềng cho khô để làm chất đốt nên khói mịt mù...
Trời tháng 10 khoảng 4-5 giờ chiều là đã tối om. Đường trơn như thoa mỡ mà ai cũng vội vội vàng vàng. Tới bến sông thấy nước đục ngầu chảy xiết nhưng vẫn tin mình sẽ được đến nhà. Bên kia sông, mấy ánh đèn dầu trong nhà hắt ra lập lòe cứ như ánh đuốc ma trơi. Gió rít trên đầu, nước dập dềnh trước mặt và khản giọng kêu đò. Nếu nghe tiếng mái dầm hoặc con sào đụng vào be ghe lộp cộp là mừng; còn chỉ có tiếng gió, tiếng mưa quất vào ruộng dâu, vào bờ tre thì tiếp tục... đò ơi! Nghe tiếng người chèo đò hoặc người trong gia đình băng gió vọng tới báo nước chảy xiết đò qua không được thì phải quay trở lại tìm nhà người quen tá túc qua đêm.
Năm 1995, vùng B (các xã thuộc huyện Đại Lộc nằm bờ Bắc sông Vu Gia) được Liên Hiệp Quốc tài trợ kinh phí cải tạo đồng ruộng, mở đường, xây cầu qua sông. Liền đó, chính quyền tỉnh Quảng Nam tiến hành bê-tông hóa đường nông thôn. Bến đò quê tôi được cầu Quảng Huế bắc ngang qua nối đường trải nhựa chạy khắp vùng. Từ đó, đời sống tinh thần, vật chất của bà con quê tôi khá lên thấy rõ. Bây giờ, xe hơi lên xuống ào ào. Mùa mưa lụt, xe cũng chạy vào tới tận nhà, giày dép chẳng phải xách tay lội bùn như trước. Đêm hôm, dù có mưa gió bão bùng, người hai bên bờ sông Vu Gia vẫn qua lại bình thường - điều mà trước năm 1995 nằm mơ cũng không thấy. Người chèo đò năm xưa vẫn ở nơi bến sông ấy nhưng nhà cửa khang trang, đẹp đẽ; lắm người ở phố thị không bằng. Đã đôi lần, tôi về đứng trước cổng nhà anh, thấy dấu tích của bến cũ mà tưởng đến tiếng gọi đò trong đêm vắng...
Quê tôi bây giờ không còn nhà tranh, có nhiều nhà cao tầng. Và dưới những mái nhà ấy, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng học bài, vẫn thấy làn khói thơm lan ra chuẩn bị cho bữa cơm chiều...
Theo VNE
Một tiếng "nhà" Trong khi khuyên nhủ chúng ta phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở rằng đó là cái vốn ngàn đời của dân tộc. Và trong cái vốn rất phong phú ấy, chúng ta có thể tìm thấy thêm được nhiều điều vê dân tộc mình. Có lẽ ngôn từ đầu tiên đã khiến...