Chạy đua né hạn mặn
Tháng 10-2019, nước lũ đã về nhưng vẫn được xem là lũ nhỏ so với nhiều năm. Nông dân kém vui khi con nước nhỏ, đánh bắt thủy sản ít. Trong khi đó, nông dân cuối nguồn, nhất là vùng ven biển hết sức lo lắng.
Nông dân chuẩn bị xuống giống lúa vụ đông xuân
Bởi nhiều năm qua, sau lũ nhỏ, ĐBSCL sẽ đối diện hạn – mặn khốc liệt. Đây được xem là thách thức lớn cho vụ lúa đông xuân, khi nhiều dấu hiệu cho thấy hạn – mặn sẽ đến sớm hơn trong mùa khô tới đây.
Mở đê lấy phù sa
Trong gần 10 năm trở lại đây, ĐBSCL đã thoát khỏi cảnh “né lũ” khi cơ sở hạ tầng được đầu tư cơ bản để thích ứng với lũ. Trong khi đó, lượng nước sông Mê Công đổ về hạ nguồn ngày càng ít đi do các nước xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Công. Lũ nhỏ, tình hình hạn – mặn ở ĐBSCL ngày càng khốc liệt. Nông dân trồng lúa đông xuân và hè thu phải gánh chi phí sản xuất nhiều hơn, nguy cơ rủi ro do thiên tai tăng lên.
“Năm nào nghe báo đài đưa tin có lũ lớn ở đầu nguồn, nông dân ở đây mừng. Vì lũ lớn, nước ngọt nhiều sẽ đẩy được nước mặn. Ngược lại, lũ nhỏ, nông dân ở đây chịu thiệt thòi do hạn mặn gây ra”, nông dân Huỳnh Văn Ba ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh nói trong lo lắng. Hiện tại nhiều nông dân ở hạ nguồn sông Cửu Long đang tranh thủ thu hoạch lúa thu đông (lúa vụ 3).
“Vụ này, lúa trúng mùa, gần 8 tấn/ha. Lúa bán với giá gần 5.000 đồng/kg, lãi gần 50 triệu đồng. Tính ra, mức lãi này cao hơn vụ hè thu vừa qua, do chi phí đầu tư ít và năng suất lúa cũng đạt hơn”, ông Trần Văn Dương (huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang) cho biết. Điều đáng mừng là các địa phương ở ĐBSCL đã giảm đáng kể diện tích lúa thu đông. Lúc cao điểm, diện tích lúa thu đông ở ĐBSCL lên đến 900.000ha. Giờ các địa phương chỉ còn sản xuất khoảng 650.000 – 700.000ha. Đồng Tháp và An Giang, hai địa phương có hệ thống đê bao khép kín lớn nhất vùng ĐBSCL, lại có diện tích lúa thu đông giảm mạnh. Nên khi bỏ canh tác lúa vụ 3, các địa phương sẽ mở đê lấy nước, dẫn phù sa cho đồng ruộng cũng là cách tích nước ngọt.
Trong những năm gần đây, diện tích gieo trồng các nhóm giống lúa thơm, đặc sản ở ĐBSCL cải thiện đáng kể: Tăng từ 11,4% năm 2015 lên 17,5% vào năm 2018; giống lúa chất lượng cao từ 39,8% năm 2015 lên 41% vào năm 2018. Cụ thể trong vụ hè thu 2019, diện tích giống lúa thơm, đặc sản chiếm 24,8%; nhóm lúa chất lượng cao chiếm 44%, nhóm lúa chất lượng trung bình chiếm 19%, nhóm nếp chiếm 7,2% và các giống còn lại chiếm 50%. Trong thời gian qua, Viện Lúa ĐBSCL đã tăng cường công tác nghiên cứu để chọn tạo các giống lúa có chất lượng gạo và giá trị dinh dưỡng cao và có kết quả ban đầu rất tốt với giống lúa OM8 và OM9. Đây là hai giống lúa cho gạo ít bạc bụng, cơm mềm dẻo, vị ngọt và có mùi thơm dậm.
ĐBSCL có khoảng 1,7 triệu ha đất lúa, hàng năm ĐBSCL gieo trồng khoảng 4,2 triệu ha lúa (3 vụ/năm). Trong đó, vụ lúa đông xuân với khoảng 1,6 triệu ha được xem là vụ lúa chính trong vùng. “Chúng tôi đã triển khai quyết liệt làm thủy lợi nội đồng, tuyên truyền để nông dân chuẩn bị vệ sinh đồng ruộng. Khi thuận lợi bơm rút nước, xuống giống nhanh vụ lúa đông xuân”, ông Trần Chí Hùng, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Hậu Giang, cho biết. Theo ông Hùng, hiện nay Cục Trồng trọt đã yêu cầu các sở NN-PTNT vùng ĐBSCL sẵn sàng phương án xuống giống sớm vụ lúa đông xuân để né hạn – mặn trong mùa khô. Đây là điều hợp lý, vì lũ nhỏ và muộn đã tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập sớm vào Kiên Giang vừa qua.
Giúp nông dân giảm chi phí
Video đang HOT
“Các tổ hợp tác, HTX, phòng nông nghiệp đã chuẩn bị nguồn giống xác nhận có phẩm cấp cao để cung cấp cho nông dân. Ngoài ra, các biện pháp canh tác kỹ thuật tiến tiến sẽ được triển khai để giúp nông dân áp dụng trên diện rộng. Đây được xem là hai giải pháp căn cơ để giúp nông dân giảm giá thành, tăng lợi nhuận trong vụ đông xuân”, ông Trần Chí Hùng cho biết.
Theo TS Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, việc sử dụng công cụ và máy gieo lúa theo hàng, kỹ thuật sạ hàng là một đột phá trong kỹ thuật canh tác lúa đến nay đã được nông dân ĐBSCL ứng dụng khoảng 20% diện tích đem lại hiệu quả rất lớn: giảm 50% lượng hạt lúa giống (từ 200 – 250 kg/ha xuống còn 120 kg/ha). Bên cạnh đó, việc khuyến cáo giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật tăng năng suất là giải pháp chủ lực cho chương trình 3 giảm – 3 tăng, 1 phải – 5 giảm. Riêng ở Nam bộ có khoảng 700.000ha trồng lúa áp dụng máy sạ hàng, tiết kiệm riêng về lúa giống: 100 kg/ha x 10.000 đồng/kg x 700.000ha = 700 tỷ đồng/năm.
“Để nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam, rất mong các doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự hợp tác và đầu tư nhiều hơn nữa trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng quy trình canh tác lúa phù hợp, lúa hữu cơ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Quan trọng hơn là đẩy mạnh hợp tác với các đơn vị nghiên cứu để tiếp nhận và quảng bá các giống lúa mới có phẩm chất tốt ra thị trường. Ngoài ra, cũng cần quan tâm hơn nữa đến các giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng và gạo chức năng, mặc dù thị phần không lớn, nhưng có giá trị kinh tế rất cao, mà chưa được quan tâm đúng mức” – TS Trần Ngọc Thạch đề xuất.
Ngày 4-10, đập Trà Sư (Tịnh Biên, An Giang) bắt đầu xả lũ nhằm kiểm soát lũ vào vùng Tứ giác Long Xuyên, cung cấp phù sa, tháo chua, rửa phèn, vệ sinh đồng ruộng và tạo điều kiện cho người dân khai thác thủy sản mùa lũ…
Ông Lữ Cẩm Khường, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh An Giang cho biết: “Đến thời điểm này mới xả lũ đập Trà Sư là muộn hơn khoảng 1 tháng so với mùa lũ năm 2018; nguyên nhân do lũ năm 2019 về muộn và thấp hơn mọi năm”. Cũng theo ông Khường, thời gian qua các đơn vị thi công đang chặn dòng để thi công 2 cống Trà Sư và Tha La; vì vậy năm nay chỉ xả lũ duy nhất đập Trà Sư.
CAO PHONG
Theo SGGP
10 năm phát triển giống cây - con mới, vẫn nhập 80% giống hoa, rau
Sau 10 năm thực hiện Đề án phát triển sản xuất giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản đến năm 2020, đã có hàng nghìn giống cây - con mới được đưa vào sản xuất, góp phần tạo nên một hệ sinh thái canh tác mới.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường, nếu không tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu, chọn tạo giống thích ứng với thị trường và biến đổi khí hậu thì ngành này sẽ tụt hậu.
Ra mới hàng nghìn giống, vẫn phụ thuộc nhập khẩu
Theo báo cáo của Bộ NNPTNT, từ năm 2010 đến nay, ngành chức năng đã công nhận được 685 giống cây trồng (248 giống được công nhận chính thức, 437 giống sản xuất thử). Trong đó, chỉ riêng giống lúa được công nhận chính thức là 180 giống; giống ngô công nhận chính thức 40 giống ngô lai và 56 giống sản xuất thử.
Trong khi đó, các giống rau, giống hoa được công nhận còn khiêm tốn. Sau 10 năm, mới công nhận chính thức và sản xuất thử 16 giống hoa. Đối với giống lâm nghiệp, từ năm 2010 đến nay, 252 giống mới đã được công nhận chính thức. Các giống được công nhận và chuyển giao vào sản xuất là đối tượng cây mọc nhanh (keo, bạch đàn, thông...), có năng suất cao (đạt từ 20 - 40m3/ha/năm), chất lượng gỗ tốt.
Chăm sóc vườn hoa có nguồn gốc nhập khẩu tại một trang trại ở TP.Đà Lạt, Lâm Đồng.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, từ năm 2010 đến nay đã công nhận được 26 dòng/tổ hợp lai vật nuôi mới (vịt PT- Đại Xuyên, gà ri vàng rơm -VCN/VP, gà lai hướng trứng HA, tằm sắn TS1-T, tằm sắn TS1-H, dòng vịt lai thương phẩm VSM6...).
Nhờ việc đã làm chủ công nghệ chọn tạo giống lợn, trọng lượng xuất chuồng tăng từ 68 - 72kg lên 90 - 100kg/6 tháng tuổi; tỷ lệ nạc đối với lợn lai F1 tăng từ 35-38% lên 40 - 42%.
Đối với lĩnh vực thuỷ sản, từ năm 2010 đến nay đã công nhận 13 giống thủy sản mới, gồm: Cá trắng, cá rô phi chọn giống thế hệ G0, giống cá rô phi chọn giống mặn lợ thế hệ G5, cá nheo Mỹ, tôm sú chọn giống MOINA, tôm thẻ chân trắng thế hệ G1, tôm thẻ chân trắng bố mẹ thế hệ G3...
Hàng năm, các cơ sở sản xuất giống trên cả nước đã sản xuất khoảng 40 tỷ con giống tôm sú; 100 tỷ con giống tôm chân trắng; cá giống nước lợ, nước mặn các loại 5 triệu con; giống nhuyễn thể 20 tỷ con; cua ghẹ giống 25 triệu con; cá giống nước ngọt các loại khoảng 50 tỷ con...
Tuy vậy, theo ông Nguyễn Văn Việt - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NNPTNT), công tác nghiên cứu, chọn tạo giống chủ yếu tập trung vào những cây trồng, vật nuôi ngắn ngày, sinh trưởng nhanh. Một số giống mới được công nhận nhưng chưa được sử dụng rộng trong sản xuất. Trong trồng trọt, chủ yếu tập trung chọn tạo giống lúa, ngô... Các loại giống rau ăn lá, điều, một số loại cây ăn quả... chưa được quan tâm đúng mức.
Tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất một số cây trồng, vật nuôi chưa đạt mục tiêu đề ra. Các địa phương còn tồn tại hiện tượng người sản xuất sử dụng giống cây trồng, vật nuôi chưa đúng quy chuẩn kỹ thuật nên năng suất, chất lượng chưa cao. Các thành phần kinh tế còn ít đầu tư nghiên cứu chọn tạo giống; mối liên kết giữa các cơ quan khoa học với các thành phần kinh tế trong nghiên cứu, sản xuất giống còn thiếu chặt chẽ.
Đánh giá cao những kết quả nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi trong 10 năm qua, nhưng theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, con số 80% giống rau, hoa phải nhập khẩu là con số đáng phải suy nghĩ. Con số đó cho thấy, cơ cấu chọn tạo giống đang có sự mất cân đối đáng kể.
Đổi mới theo nhu cầu thị trường
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, ngành sản xuất giống đã góp phần quan trọng, tạo động lực cho ngành nông nghiệp duy trì đà tăng trưởng, thúc đẩy xuất khẩu, đồng thời hình thành hệ sinh thái canh tác hiện đại. Nhờ phát triển nguồn giống tốt, lâm nghiệp đã biến thành một ngành kinh tế với giá trị kim ngạch xuất khẩu vượt 10 tỷ USD, phần lớn nguyên liệu tự túc bằng rừng của Việt Nam.
"Tuy nhiên, đang có sự mất cân đối khá lớn giữa khu vực các viện, trường và tư nhân trong chọn tạo giống. Trong khi các viện trường được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, nguồn nhân lực lớn, thì các cơ sở tư nhân đang khát khao có những điều kiện đó để tạo ra nhiều giống hơn" - ông Cường nêu một thực tế.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cơ cấu giống nghiên cứu dường như không có nhiều thay đổi sau 10 năm. Các đơn vị vẫn chủ yếu nghiên cứu các giống ngô, lúa, con nuôi chủ lực như lợn, mà chưa có sự chuyển biến theo nhu cầu thị trường. "Mỗi năm cho ra đời mấy trăm loại giống, nhưng 80% giống rau vẫn nhập nội, giống khoai tây, giống hoa vẫn phải nhập cho thấy các đơn vị chưa nhạy bén, chưa đánh giá được phạm vi rất rộng của thị trường" - ông Cường nói.
Từ thực tế đó, Bộ trưởng Cường yêu cầu các tổ chức, cá nhân phải sản xuất giống theo mệnh lệnh thị trường, không thể khư khư ôm mãi cơ cấu cũ, cần nghiên cứu, chọn tạo giống thích ứng với biến đổi khí hậu, biến nguy cơ thành thời cơ. "Ví dụ, đồng bằng sông Cửu Long cần các giống cây trồng, thủy sản có thể chịu hạn, mặn; khu vực Tây Bắc thay vì trồng ngô thì chuyển sang trồng cây ăn quả, cây dược liệu. Điều quan trọng là phải huy động được sức mạnh của doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu, chọn tạo giống để sản xuất sao cho phù hợp nhu cầu thị trường" - Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Văn Việt - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NNPTNT):
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất giống
Trong giai đoạn tới, chủ trương của Bộ NNPTNT là khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất giống những cây trồng, vật nuôi được ưu tiên cơ cấu lại theo 3 trục sản phẩm phát triển (Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia, có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên và thịt lợn, thịt gia cầm; Nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh; Nhóm sản phẩm là đặc sản địa phương).
Tiếp tục nghiên cứu chọn tạo những giống cây trồng, vật nuôi mới, có khả năng chống chịu sâu bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu, năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Ưu tiên nghiên cứu chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi chủ lực. Hoàn thiện khung pháp lý về giống phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhằm góp phần thực hiện thành công định hướng cơ cấu lại ngành giai đoạn từ nay đến năm 2030, Bộ NNPTNT kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng Đề án "Phát triển giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản giai đoạn 2021-2030".
TS Trần Ngọc Thạch - Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL:
Giống xác nhận mới đáp ứng 60% nhu cầu
Với tổng diện tích gieo trồng 4 triệu ha, hàng năm, đồng bằng sông Cửu Long cần khoảng 450.000 tấn giống các cấp phục vụ sản xuất. Với năng lực sản xuất giống hiện nay, lượng giống đạt tiêu chuẩn giống xác nhận mới đáp ứng 60% nhu cầu. Để đảm bảo cung cấp giống đúng chất lượng, đúng cơ cấu, bên cạnh việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước, cần có sự đầu tư đúng mức và có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các đơn vị để nâng cấp hệ thống sản xuất giống cộng đồng thành hệ thống giống chính quy. Hình thành ở đồng bằng sông Cửu Long một nền công nghiệp sản xuất giống có trình độ cao.
Khánh Nguyên (ghi)
Theo Danviet
Nước lên đồng nhà nông miền Tây tranh thủ nuôi, bắt cá tôm Nước nội đồng dâng cao cũng là lúc nhiều người tất bật với công việc mưu sinh, nuôi cá đồng, bắt tôm cá theo con nước ở những cánh đồng không canh tác vụ lúa Thu đông (lúa vụ 3) trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Những ngày qua, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 nên trên địa bàn tỉnh xuất...