Chạy đua chi tiêu quân sự: Mỹ vượt mặt Trung Quốc, Đức chịu sức ép lớn
Ngày càng có nhiều tiền bạc được đầu tư vào lĩnh vực quân sự trên thế giới, trong đó Mỹ và Trung Quốc vẫn là các nước dẫn đầu.
Tuy nhiên không có quốc gia nào tăng chi tiêu quốc phòng nhiều như Đức. Chi tiêu quân sự trên toàn cầu đã đạt 1,9 nghìn tỷ USD (tương đương 1,7 nghìn tỷ euro) trong năm 2019, đánh dấu mức chi hàng năm cao nhất kể từ năm 1988. So với năm 2018, mức chi tiêu này tăng 3,6 %, là tỉ lệ tăng lớn nhất kể từ năm 2010, theo số liệu mới nhất từ Viện nghiên cứu Hòa bình quốc tế (SIPRI). AFP dẫn lời Nan Tian, nhà nghiên cứu của SIPRI, nhận xét: “Chi tiêu quân sự đã đạt đến đỉnh cao nhất kể từ khi kết thúc chiến tranh Lạnh”.
Tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke của Hải quân Mỹ nhận nhiên liệu từ tàu tiếp dầu USNS Guadalupe ở Thái Bình Dương ngày 27/3. Ảnh: US Navy.
Đức chịu sức ép lớn
Tại Đức, chi tiêu quân sự tăng 10% lên đến 49,3 tỷ USD – mức tăng ngân sách quốc phòng lớn nhất trong số 15 quốc gia đứng đầu về chi tiêu trong lĩnh vực này.
Chuyên gia Max Mutschler thuộc Trung tâm chuyển đổi quốc tế Bonn (BICC) – một tổ chức nghiên cứu hòa bình và xung đột cho biết: “Đức đã chịu sức ép phải tăng kinh phí quốc phòng kể từ trước thời chính quyền Tổng thống Trump. Tác động của sức ép này ngày càng trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng, mức chi tiêu của nước này vẫn chưa đạt tới 2% GDP”. Năm 2019, chi tiêu quân sự của Đức lên tới 1,38% GDP.
Trước đó vào năm 2014, tại một Hội nghị Thượng đỉnh NATO ở Wales, các nước thành viên nhất trí dành 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho quốc phòng trong thập kỷ tới.
Chưa tính đến các cam kết đối với NATO, nhà nghiên cứu của SIPPRI Diego Lopes da Silva cho rằng, quyết định tăng chi tiêu quốc phòng của Đức một phần là do tình hình địa chính trị ở châu Âu và một lý do khác là bởi “Nga một lần nữa được coi là mối đe dọa ngày càng gia tăng”. Năm 2019, Moscow đã dành gần 4% GDP cho chi tiêu quân sự, lên tới 65,1 tỷ USD.
Theo chuyên gia Silva, không chỉ riêng Đức mà nhiều quốc gia khác trong NATO đang theo dõi sự phát triển của Nga với con mắt cảnh giác.
Trong số 15 quốc gia trên thế giới có ngân sách quốc phòng cao nhất, thì có 6 nước là thành viên của NATO, bao gồm Canada, Pháp, Đức Italy, Anh và Mỹ. Chi tiêu quân sự của những nước này gộp lại chiếm 1 nửa tổng chi tiêu quân sự của thế giới.
Năm 2019, tổng chi tiêu quân sự của 29 nước thành viên trong NATO vào khoảng 1,04 nghìn tỷ USD – nhưng con số này không gây bất ngờ đối với chuyên gia Max Mutschler.
“Chi tiêu quân sự được dựa trên những tình huống xấu nhất”, ông Mutschler cho biết, đồng thời giải thích thêm, trong khi công chúng nhận thấy xung đột kinh tế giữa các quốc gia vẫn luôn ở phía trước thì nguy cơ xung đột quân sự vẫn luôn hiện diện ở phía sau.
Chuyên gia Mutschler nói: “Liên quan đến căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc, chúng tôi không biết liệu có xảy ra 1 cuộc xung đột vũ trang hay không. Vì vậy quân đội ở cả 2 nước đang chuẩn bị cho sự kiện này”.
Video đang HOT
Mỹ vẫn đi trước Trung Quốc
Theo báo cáo của SIPPRI, năm 2019, Mỹ chịu tránh nhiệm gánh 38% chi tiêu quân sự toàn cầu, tương đương 732 tỷ USD. Chỉ riêng mức gia tăng ngân sách trong năm 2018 đã bằng tổng chi tiêu quân sự của Đức trong năm 2019.
Kinh phí nói trên được sử dụng cho nhiều mục đích, trong đó có việc trả lương cho khoảng 16.000 nhân viên quân sự bổ sung, cùng với hiện đại hóa kho vũ khí hạt nhân. Tuy vậy, các chuyên gia cũng coi sự gia tăng này là phản ứng đối với Trung Quốc – quốc gia đứng thứ 2 sau Mỹ khi nói đến chi tiêu quân sự.
Ngân sách dành cho quân sự của Bắc Kinh chiếm 14% chi tiêu quân sự toàn cầu trong năm 2019 và tăng hơn 5% so với năm 2018, lên đến 261 tỷ USD. Trung Quốc gia tăng chi tiêu quân sự đều đặn kể từ năm 1994 và ngân sách của nước này dành cho quân sự đã tăng 85% kể từ năm 2010. Song xét về tỷ lệ phần trăm theo GDP, khoản chi này vẫn không có sự thay đổi đáng kể và hầu như luôn ở mức 1,9%.
Ấn Độ vượt Saudi Arabia
Tại châu Á, bên cạnh Trung Quốc, mức chi tiêu quân sự của Ấn Độ cũng gia tăng đáng kể vào năm 2019, tăng khoảng 7% lên đến 71,1 tỷ USD. “Căng thẳng và cạnh tranh với cả Pakistan và Trung Quốc là một trong những lý do chính khiến chính phủ Ấn Độ tăng chi tiêu quân sự mạnh mẽ”, nhà nghiên cứu SIPRI Siemon Wezeman cho hay.
Về phần mình, Saudi Arabia vượt xa các nước Trung Đông khác chi dành 61,9 tỷ USD trong năm 2019, mặc dù con số này giảm 16% so với năm 2018. Con số này là khá ngạc nhiên, theo báo cáo của SIPRI, khi xem xét các hoạt động quân sự của Saudi Arabia tại Yemen và căng thẳng gia tăng giữa nước này với Iran.
Các nền kinh tế mới nổi chi tiêu ít hơn cho quân sự
Chi tiêu quân sự ở các quốc gia khác, đặc biệt là những nền kinh tế mới nổi khá mờ nhạt khi so sánh với các nước trop top đầu. Các nước Nam Mỹ chỉ chi tiêu 53 tỷ USD trong năm 2019, riêng Brazil đã chiếm 1 nửa con số này.
Các quốc gia Đông Nam Á chi tiêu tổng cộng khoảng 41 tỷ USD cho quân sự và toàn bộ lục địa châu Phi chi 42 tỷ USD. Tuy nhiên, mức chi tiêu có nhiều biến động phụ thuộc vào tình hình của mỗi nước. Chẳng hạn Uganda tăng ngân sách quốc phòng lên 52% trong khi Burkina Faso giảm 22%. Báo cáo của SIPRI cho rằng sở dĩ có sự khác biệt này là bởi tình hình địa chính trị hiện tại ở khu vực châu Phi cận Sahara và việc liệu các quốc gia có trực tiếp can dự vào 1 cuộc xung đột quân sự hay không.
Nhà nghiên cứu Tian nhận xét, nhìn chung “chi tiêu quân sự có tăng tốc trong những năm gần đây”, nhưng xu hướng này có thể bị đảo ngược do hậu quả của đại dịch Covid-19 và nguy cơ suy thoái kinh tế. Theo ông, khi thế giới đứng trước nguy cơ suy thoái toàn cầu, chính phủ các nước sẽ phải cân nhắc về chi tiêu quân sự so với các lĩnh vực khác như y tế và giáo dục. “Khả năng cao điều này sẽ thực sự tác động tới chi tiêu quân sự”, ông Tian nói./.
Hồng Anh
'Vũ khí' có thể giúp Đức mở lối thoát Covid-19
Tuần trước, một bác sĩ và một cảnh sát đột ngột bấm chuông cửa nhà Felix Germann, xin phép thử máu của anh mỗi tháng trong vòng một năm.
Germann và bạn gái nằm trong số 3.000 hộ gia đình được lựa chọn ngẫu nhiên ở thành phố Munich tham gia một nghiên cứu đầy tham vọng với mục đích chính là tìm hiểu có bao nhiêu người nhiễm nCoV, bao gồm cả những người không có triệu chứng, một chỉ số vô cùng quan trọng với chính phủ.
"Tất nhiên tôi đồng ý. Tôi muốn giúp đỡ. Đây là cuộc khủng hoảng chung và chính phủ đang làm những gì có thể. Mọi người cần đóng góp chút gì đó", Germann, quản lý dự án 41 tuổi tại một công ty truyền thông, cho hay.
Các nhà khoa học Đức hy vọng thu thập được những thông tin có giá trị về mức độ xâm nhập của nCoV trong xã hội, mức độ nguy hiểm thực sự của nó và liệu khả năng miễn dịch có thể phát triển hay không.
Từ những phát hiện này, chính phủ mong muốn làm sáng tỏ các vấn đề giúp Đức "hạ cánh an toàn" sang giai đoạn tiếp theo của đại dịch. Đó là những biện pháp hạn chế nào ngăn chặn virus hiệu quả nhất và mệnh lệnh nào có thể yên tâm gỡ bỏ.
Các nhân viên y tế đến nhà Felix Germann tại thành phố Munich, Đức để lấy mẫu máu xét nghiệm. Ảnh: NY Times.
Đức, đất nước với 83 triệu dân, tự sản xuất hầu hết kit xét nghiệm chất lượng cao mà họ sử dụng để tiến hành 120.000 xét nghiệm mỗi ngày, quy mô lớn hơn hầu hết quốc gia khác trên thế giới, thậm chí con số này đang tăng lên. Thủ tướng Angela Merkel, một tiến sĩ hóa học lượng tử, cho biết mục tiêu của họ là "truy vết mọi chuỗi lây truyền".
Năng lực xét nghiệm mức độ cao đã giúp Đức làm chậm quá trình lây lan của nCoV, trở thành "đầu tàu" chống đại dịch trong số các quốc gia phương Tây. Số ca tử vong của nước này tương đối thấp và ngày càng nhiều người bình phục. Tỷ lệ truyền nhiễm nCoV tại Đức hiện nay là cứ 10 người lây cho 7 người, tương đương 0,7%, sụt giảm đáng kể đối với một chủng virus lây lan theo cấp số nhân.
Bất chấp những chỉ trích về việc không dẫn dắt, đoàn kết và hỗ trợ Liên minh Châu Âu (EU) giữa cuộc khủng hoảng sâu sắc, Thủ tướng Merkel, với "nghệ thuật" kết hợp khéo léo giữa trấn an và cảnh tỉnh, vẫn được người dân trong nước ca ngợi và tuân theo các quy tắc cách biệt cộng đồng chính phủ đặt ra. Tỷ lệ tín nhiệm của bà hiện lên tới trên 80%.
Theo bình luận viên Katrin Bennhold của NY Times, lòng tin vào chính phủ mang lại cho Đức lợi thế to lớn trong cuộc chiến chống Covid-19. Đó là lý do ngay tại một quốc gia đề cao tính riêng tư, người dân vẫn bày tỏ thiện chí, thay vì lo sợ, khi nhìn thấy cảnh sát và những người lạ đeo khẩu trang, mặc đồ bảo hộ, gõ cửa xin xét nghiệm máu.
Dự án nghiên cứu kháng thể ở Munich, do Khoa Bệnh Truyền nhiễm và Y học Nhiệt đới tại Bệnh viện Đại học Munich điều hành và chính quyền bang Bavaria đồng tài trợ, là nghiên cứu lớn nhất được triển khai tại địa phương của Đức. Tuy nhiên, các nhà khoa học cảnh báo chưa có bằng chứng cho thấy việc phát hiện kháng thể đồng nghĩa với khả năng miễn dịch. Ngay cả khi điều đó chính xác, vẫn chưa rõ khả năng miễn dịch đó có thể tồn tại bao lâu.
Ở quy mô toàn quốc, Viện Robert Koch (RKI), cơ quan phụ trách kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Đức, đang xét nghiệm 5.000 mẫu từ các ngân hàng máu trên cả nước hai tuần một lần, cùng mẫu từ 2.000 người tại 4 "điểm nóng" của đại dịch. Dự án tham vọng nhất, với mục tiêu xét nghiệm ngẫu nhiên 15.000 người trên toàn quốc, dự kiến bắt đầu vào tháng tới.
"Trong thế giới tự do, Đức là quốc gia đầu tiên hướng đến tương lai. Chúng tôi đang dẫn dắt ý tưởng phải làm gì tiếp theo", giáo sư Michael Hoelscher, người đứng đầu nghiên cứu ở Munich, nêu ý kiến, nói thêm rằng một số quốc gia đã hỏi ông về phương thức thực hiện dự án. Hoelscher cũng là đồng tác giả của nghiên cứu có tầm ảnh hưởng rộng rãi về cách nCoV lây truyền trước khi người nhiễm xuất hiện triệu chứng.
"Sau khi đọc xong nghiên cứu này, tôi không còn nghi ngờ gì về sự tồn tại của hiện tượng lây lan không triệu chứng. Nó đã giúp giải đáp câu hỏi", Tiến sĩ Anthony Fauci, giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Mỹ (NIAID), cố vấn về Covid-19 của Tổng thống Donald Trump, phát biểu hôm 1/2, ba ngày sau khi nghiên cứu của Hoelscher được công bố.
Sự lây lan không triệu chứng khiến công tác chống dịch trở nên khó khăn, bởi số lượng lớn người nhiễm không được phát hiện. Các nhà khoa học cho biết việc ước tính số ca nhiễm ẩn, nắm rõ quy mô thực sự của đại dịch, là chìa khóa giúp điều chỉnh chính sách nới lỏng dần các hạn chế, giảm thiểu mức độ cách biệt cộng đồng và thiệt hại kinh tế.
"Chúng ta sẽ nắm rõ hơn về số ca nhiễm không được phát hiện ngay khi hoàn thành những nghiên cứu đại diện này. Rất nhiều việc đang được thực hiện để đo lường chính xác", Lothar Wieler, chủ tịch phụ trách bệnh truyền nhiễm của RKI, cho hay.
Nỗ lực nghiên cứu của Đức đã đạt một số kết quả tạm thời. Tại Gangelt, thị trấn nhỏ gồm khoảng 12.000 người phía tây bắc đất nước, việc xét nghiệm nhóm 500 cư dân đầu tiên cho thấy 14% có kháng thể nCoV và 2% dương tính với virus, mở ra hy vọng rằng khoảng 15% cư dân địa phương có thể đã miễn dịch ở mức độ nhất định.
"Quá trình hướng tới khả năng miễn dịch cộng đồng đã bắt đầu", giáo sư Hendrik Streeck, giám đốc Viện Virus học tại Bệnh viện Đại học Bonn, người dẫn đầu nghiên cứu, viết trong báo cáo, thêm rằng mức độ miễn dịch tại Gangelt gần như chắc chắn thấp hơn những khu vực khác trong nước.
Sau một lễ hội hồi giữa tháng 2, Gangelt trở thành một trong những nơi đầu tiên bị nCoV tấn công và chịu ảnh hưởng đặc biệt nặng nề. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong tại thị trấn là 0,37%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 3% trên toàn quốc, số liệu chỉ dựa vào những ca nhiễm được phát hiện.
Nghiên cứu tại Munich dự kiến mang lại kết quả toàn diện hơn, bởi những người tham gia như Germann sẽ được theo dõi cả năm. Ngoài các xét nghiệm máu thường xuyên, những người thực hiện dự án còn hỏi về mọi thứ, từ trạng thái tinh thần đến tình hình tài chính.
"Chúng tôi đang đứng ở ngã tư đường. Liệu chúng tôi sẽ đi theo phương án nới lỏng nhiều thêm, tăng khả năng miễn dịch trong mùa hè để kiềm chế virus lây lan trong mùa đông, đồng thời giúp người dân tự do hơn, hay cố gắng giảm thiểu lây nhiễm cho đến khi có vaccine?", giáo sư Hoelscher đặt vấn đề.
"Đây là câu hỏi cho các chính trị gia, không phải giới khoa học. Nhưng các chính trị gia cần dữ liệu để đánh giá rủi ro", ông nói thêm.
Hoelscher nghĩ ra ý tưởng nghiên cứu kháng thể vào ngày 19/3, ngay trước khi bang Bavaria tuyên bố phong tỏa. "Tôi tự nhủ rằng nếu sắp phải phong tỏa, chúng ta cần bắt đầu thực hiện chiến lược thoát khỏi nó ngay bây giờ", ông cho hay.
Một ngày sau, Hoelscher viết đơn xin hỗ trợ từ chính quyền Bavaria và được "bật đèn xanh" sau 6 giờ. Các kit xét nghiệm được chuyển đến sau ba tuần, cùng một phòng thí nghiệm mới và những nhóm nhân viên y tế triển khai khắp thành phố Munich.
6 ngày sau khi lần đầu tiên bấm chuông cửa nhà Germann, một bác sĩ và hai sinh viên y khoa trở lại căn hộ của anh. Họ mặc đồ bảo hộ dùng một lần, đeo găng tay và kính. Sau khi lấy máu xong, họ cởi và cất đồ bảo hộ, khử trùng tất cả bề mặt mà họ đã chạm vào rồi rời đi. Toàn bộ quá trình chỉ mất 10 phút.
"Tôi bị ấn tượng trước sự nhịp nhàng hoàn hảo của họ", Germann cho hay, nói thêm rằng anh rất tò mò về kết quả xét nghiệm đầu tiên của mình, dự kiến được gửi vào tuần sau. "Bạn sẽ thắc mắc rằng liệu mình có nhiễm nCoV hay không".
Ánh Ngọc
Hơn 143.000 ca nhiễm nCoV tại Đức Đức xác nhận thêm 1.785 ca nhiễm nCoV, nâng tổng số lên hơn 143.000, trong đó gần 4.600 người chết. Số ca nhiễm mới tại Đức tăng nhẹ sau hai ngày giảm liên tiếp. Vào ngày cao điểm nhất hôm 27/3, nước này ghi nhận tới gần 7.000 ca mới. Thêm 194 người chết vì nCoV, tăng so với mức 110 hôm qua,...