Chàng già làng đa tài
Đinh ninh rằng già làng phải là những cụ lớn tuổi, đạo mạo nên khi gặp Krajan Plin, tôi không khỏi sửng sốt bởi sự phong trần, cuốn hút của ông. Lái ô tô và phóng mô tô vù vù, lướt web ào ào; sáng tác nhiều ca khúc hay; chơi thành thạo các nhạc cụ K’Ho.
Đặc biệt, ông là một trong những nghệ nhân hiếm hoi có thể tạc tượng nhà mồ và dạy tiếng cho chiêng.
Đầu bếp cừ khôi
Trung tuần tháng 8, chúng tôi leo lên đỉnh Lang Biang 2167m – ngọn núi cao nhất nam Tây Nguyên với hình dáng tựa như bộ ngực căng tròn của phụ nữ nên người Lạch gọi là núi mẹ. Gió cao nguyên lồng lộng khiến mọi người lạnh buốt, co ro nhưng ai nấy đều xuýt xoa khi nhìn thấy những đám mây trắng muốt lững lờ trôi trên những ngọn thông xanh ngắt. Dưới thung lũng phía xa xa, TP Đà Lạt ẩn hiện trong sương thật thơ mộng.
Rượu cần ở Lang Biang. Ảnh: HHN
Chúng tôi dựng lều ngủ qua đêm trên đỉnh núi. Dẫu đã đốt đống lửa gần lều và mặc tới 2-3 chiếc áo ấm nhưng người vẫn tê buốt, phải lấy áo mưa quấn quanh chân cho bớt lạnh. Liêng Hót Chuê – chàng trai dẫn đường người Lạch cho biết 120 năm trước, sau những chuyến thám hiểm gian khổ, có lúc suýt làm mồi cho cọp, bị voi giày hoặc tưởng như bỏ mạng vì sơn tặc…, bác sĩ Yersin (người Pháp) đã đặt chân lên ngọn núi này, đề xuất xây dựng khu nghỉ dưỡng cho sĩ quan Pháp tại vùng đất tươi tốt, mát lành dưới chân núi, làm tiền đề cho việc hình thành TP Đà Lạt.
Già làng Plin thổi tù và trong đêm lễ hội
Trên đường xuống núi, chúng tôi đến thăm già làng Krajan Plin ở buôn Đang Ja (huyện Lạc Dương, Lâm Đồng). Mới ngoài 50 tuổi nhưng Plin đã có thâm niên 13 năm làm già làng. Già làng đích thân xuống bếp làm bữa tiệc 10 món để đãi khách, nào là cơm lam, chim cu nướng, tiết canh thỏ, rồi đến gà rừng hầm ớt xanh, lươn um măng, cá suối xào với rau ha lang, mắm mật và gan cá srăng… Đoàn chúng tôi có một đầu bếp thuộc hạng đệ tử của Yan trứ danh nhưng vẫn tâm phục khẩu phục với các món là lạ, độc đáo của Plin.
“Tất cả các món ăn này đều được nấu bằng cá suối, thú rừng và rau rừng. Măng tre và lồ ô, sau khi bẻ từ rừng về thì giã ra, bỏ vô chóe rồi rắc muối vào ủ 1 -2 năm mới đem ra nấu, đảm bảo không loại măng nào sánh bằng. Không loại tiết canh nào ngon bằng tiết canh thỏ rừng, tuy nhiên thịt thỏ dễ bị tanh nếu không biết cách làm”- già Plin tiết lộ.
“Các buôn làng quanh núi Lang Biang chỉ còn 3 – 4 thợ săn giỏi, trong đó có con trai mình là Plin đó” – cụ Dagôt Jrôl (85 tuổi) vừa thưởng thức món cút nướng thơm lừng, béo ngậy vừa tự hào khoe. Sau đó cụ vít cong cái cần trúc mời chúng tôi nhấm nháp rượu cần – loại rượu (với men làm bằng cây rừng) ngọt lừ, thơm nồng, dìu dịu nhưng có thể khiến thực khách chếnh choáng, say lúc nào không hay.
Cái chi cũng rành
Hàng chục năm làm y sĩ, thợ điện rồi gia nhập đoàn ca múa nhạc Lâm Đồng, Plin có cơ hội chu du khắp các buôn làng tìm cảm hứng làm thơ, chụp ảnh, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân tộc… Mặt tiền ngôi nhà của Krajan Plin đang treo bức ảnh khỏa thân đẹp đến mê hoặc do chính già chụp: Mười mấy thanh niên dân tộc K’Ho (nhóm Lạch) da đen mun, mắt sáng rực, cơ bắp cuồn cuộn hoàn toàn khỏa thân khiêng những súc gỗ hoặc nhảy múa quanh đống lửa cháy rừng rực mà không hề tạo cảm giác dung tục.
Video đang HOT
Lãnh đạo Sở VH-TT&DL Lâm Đồng cho rằng buôn làng dưới chân núi Lang Biang là nơi nuôi dưỡng nguồn gene của chất giọng nồng nàn cao nguyên: Nóng hổi, say đắm, khát khao như trút cạn hơi trong lồng ngực.
Cho tôi xem cuốn Luật tục K’Ho khổ giấy A4 dày hơn 300 trang ở dạng bản thảo, Plin tâm sự: Mình đã sưu tầm, ghi chép, chắt lọc những điều răn, phép tắc, kinh nghiệm ứng xử của tổ tiên được truyền khẩu bao đời nay để tổng hợp lại thành văn bản cho con cháu học hỏi.
Vất vả mấy chục năm chẳng nề hà gì chỉ mong góp phần ngăn chặn bớt những tác động xấu của dòng chảy văn hóa ngoại lai ngày càng xâm nhập có nguy cơ làm mai một dần những phong tục tập quán tốt đẹp của người K’Ho.
1.000 điều luật được chia thành 50 chương được Plin diễn giải bằng thơ nên rất dễ đọc, dễ nhớ như tinh thần câu nói Miệng của thần linh, lưỡi của các già làng. Xem qua vài ba chương về kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên; khuyên răn con cháu giữ gìn lối sống giản dị, chân thật, không trộm cắp, nợ nần dây dưa… có thể thấy luật tục K’Ho ẩn chứa triết lý sống, tính nhân văn sâu sắc đồng thời cũng hàm ý răn đe, giáo dục.
Tượng gỗ của già Plin
Tại nhà của Plin, chúng tôi còn chiêm ngưỡng nhiều tượng gỗ. Dẫu là những bức tượng đơn sơ với chỉ vài ba nhát cắt hay tác phẩm nghệ thuật được điêu khắc công phu đều rất sinh động với đầy đủ các cung bậc cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố. Plin bộc bạch: Trong các tộc người thiểu số ở nam Tây Nguyên, rất ít người thạo nghề tạc tượng gỗ, đặc biệt là tượng nhà mồ. Mình cùng một số anh em họ phải sang tận các tỉnh phía bắc Tây Nguyên như Đăk Lăk, Gia Lai học bí quyết của các nghệ nhân nổi tiếng rồi về dạy lại cho dân làng để nghề này không bị thất truyền.
Tượng không phải vật vô tri vô giác mà có linh hồn, là thông điệp giao tiếp giữa các gia đình, dòng họ, buôn làng, giữa người sống và người chết, giữa con người với thần linh và cả ma quỷ. Do đó, người tạc tượng không chỉ khéo tay mà phải có sự thông tuệ để thổi hồn cho tượng, gởi gắm suy nghĩ, ước vọng của con người vào những lóng gỗ.
Tượng gỗ Tây Nguyên
Khai sinh nhóm nhạc chân trần
“Khi Plin ra đời, trời mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng nên mình chỉ dám cầu xin Yàng (trời) cho con được bình an; không ngờ sau này khi mới 39 tuổi đã trở thành già làng và làm được nhiều việc có ích cho dân làng” – cụ Glé (85 tuổi, mẹ của Plin) tự hào nói và tâm sự: Vợ chồng mình mê nhạc lắm, đêm đêm mình hát dân ca để ru con ngủ, sáng sáng chồng thổi kèn bầu (kơm buốt) gọi mình dậy giã gạo, nấu cơm… Những khi gia đình bất hòa, vợ chồng mình thường dùng điệu chiêng thay lời nói để nhắc nhở nhau sống êm ấm, hòa thuận.
Già làng phải có uy tín trong cộng đồng để điều hành buôn làng theo luật tục; có uy lực và am hiểu phong tục tập quán để hành lễ, giao tiếp với Yàng (trời), thay mặt buôn làng giao tiếp với bên ngoài.
Những điệu kèn, câu hát dần đi vào tiềm thức, thấm đẫm trong tâm hồn nên từ khi còn nhỏ, Plin đã thích ca hát, nhảy múa; từng theo nhóm du ca của nhạc sĩ Trần Tiến.
Plin sáng tác nhiều ca khúc cuốn hút về đại ngàn, trong đó K’Bling (em hãy về), Giữ ấm bếp hồng… đã chinh phục trái tim khán giả qua giọng ca của các họa mi núi rừng như Siu Black, Bonner Trinh, Cil Pơi.
Những năm tháng tuổi trẻ, Plin từng đi biểu diễn ở nhiều tỉnh thành, kể cả nước ngoài; có cơ hội tiếp cận, học hỏi được kinh nghiệm của những bậc tài danh; tuy nhiên lắm lúc lại nông nổi khoe sức, khoe giọng với những bản nhạc tiếng Anh, Pháp, Mỹ… ở chốn xô bồ đặc quánh khói thuốc và men rượu để rồi sau đó cảm thấy trống rỗng, ngao ngán.
Plin quyết định quay về buôn làng lập nhóm nhạc Những người bạn Lang Biang để biểu diễn cồng chiêng cùng những làn điệu dân ca, dân vũ mang âm hưởng núi rừng, đặc biệt những ca khúc đậm chất Tây Nguyên do Nguyễn Cường, Yphôn Ksor, Krajăn Dick… và chính anh sáng tác. Không ngờ đặc sản cồng chiêng, dân ca, dân vũ của các nghệ nhân chân trần (ban ngày vác cuốc lên nương rẫy, đêm xuống đóng khố và đi chân trần biểu diễn văn nghệ) lại ăn khách.Theo gương Plin, hơn 10 nhóm cồng chiêng khác dần hình thành tạo nên bản sắc riêng của buôn làng dưới chân núi Lang Biang, biến nơi này thành điểm du lịch dã ngoại lý thú: Sau khi leo núi ngắm mây giăng, du khách ghé buôn làng thưởng thức heo tộc, rượu cần, cùng hòa nhịp xoang với các sơn nữ xinh đẹp trong tiếng chiêng huyền hoặc.
Buôn ăng Ya chỉ vài trăm nóc nhà nhưng có đến hàng chục nghệ sĩ, ca sĩ thành danh, nổi tiếng, hàng trăm người tham gia biểu diễn trong các nhóm cồng chiêng. Nếu tính số ca sĩ, nghệ sĩ trên tổng số dân, buôn Đăng Ya chắc chắn dẫn đầu cả nước. Không rõ do nguồn nước, khí trời, mạch nguồn văn hóa bất tận, bản tính lãng mạn của người Lạch hay vì tất cả các yếu tố đó cộng lại mà đa số những người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này đều sở hữu giọng hát với âm vực rộng và âm điệu vang…
(Còn nữa)
Theo Kim Anh (Tiền Phong)
Rừng thiêng bản Cậy
Dân làng thờ thần rừng, chủ rừng trong những ngôi đền thiêng giữa rừng. Đền thiêng lẳng lặng nằm dưới tán rừng già, sẵn sàng trừng phạt kẻ nào thiếu lễ nghĩa với rừng, với luật tục của làng. Rừng thiêng là nỗi sợ hãi của người Nùng bản Cậy.
Thần rừng trừng phạt
Thầy cúng Vương Hữu Chương nhìn chúng tôi cất lời buồn bã: "Năm trước, Vàng Pồ Hiên làm thầy cúng rừng đã trót ăn thịt chó, thần rừng phát hiện đã phạt làm cho Pồ Hiên hóa dại".
Ở bản Cậy, người thầy cúng khi vào lễ thần rừng phải mặc trang phục truyền thống của người Nùng. Đêm trước khi làm lễ, thầy cúng phải tắm bằng nước lá bưởi và giữ cho mình chay tịnh, nhất là không được ăn thịt chó trong vòng ba ngày.
Trưởng thôn Hoàng Tiến Sỹ, người từ đầu đã can ngăn chúng tôi không nên đòi đến thăm rừng thiêng, trầm ngâm nhớ lại: "Năm nào không cúng thần thì sâu bọ sẽ phá hoại hết mùa màng". Vài năm trước, mưa lớn khắp vùng, đồi núi bị mưa xói, cây cối như cành củi cuốn tròn theo dòng lũ lớn. Đồi núi trơ ra đất đỏ như con người để hở hết da thịt. Nhìn mà xót xa, đau đớn. Khi ấy dân bản đói kém, không làm lễ cúng thần rừng, đến khi vào vụ, sâu bọ không rõ ở đâu kéo về phá hoại hết. Từ đó trở đi, dù được mùa hay đói kém, dân bản vẫn bảo nhau đến dịp thì vào rừng làm lễ cúng thần.
Lối vào đền thiêng - Ảnh: Vũ Thủy
Khi chúng tôi đề nghị vào thăm rừng ma, anh Tiến Sỹ, trưởng thôn bản Cậy, xua tay lắc đầu quầy quậy: "Không phải ngày cúng thì không được phép vào rừng đâu". Chỉ đến khi thầy cúng hứa sẽ đi theo cúng xin phép thần linh mở cửa rừng đón chúng tôi, anh mới dám dẫn đường cho chúng tôi vào đền. Con đường mòn tuyệt nhiên không thấy dấu chân hay bóng dáng con người, chỉ có tiếng chim rừng lảnh lót. Đi chừng vài trăm mét thấy một gốc cây to, theo chân trưởng bản chúng tôi tiếp tục vạch lá, đi xuyên qua những rễ cây già rêu mọc chừng thấm mệt mới thấy ngôi đền thiêng hiện ra.
Đền được xây cất trên một mảnh đất bằng phẳng, trước đây là một ngôi nhà trình tường bằng đất nện, lợp mái tranh nhưng nay được xây lại và lợp ngói kiên cố hơn. Bên trong đền đặt một dãy bàn dài, ở trên là sáu bát hương lớn. Thầy cúng già mắt đã mờ nhưng đôi chân thoăn thoắt đã đứng đợi sẵn. Ông chăm chú đốt lửa châm bó nhang đen ngoài cửa đền rồi dẫn chúng tôi vào. Ông lầm rầm khấn vái. Tôi chẳng hiểu ông nói gì chỉ nghe loáng thoáng mấy từ "thanh niên miền Nam".
Thầy cúng xin phép thần rừng xong xuôi mới yên tâm kể cho chúng tôi nghe về tục lệ cúng rừng. Lễ cúng thần rừng diễn ra vào tháng 2 và tháng 6 hằng năm, cúng tháng 2 được coi như lễ khởi đầu năm mới, khởi đầu mùa vụ mới. Cúng thần dịp này là mong thần linh phù hộ cho mùa màng tốt tươi, dân làng có hạt thóc, hạt ngô, quả bầu, quả bí làm cái ăn, cái giống. Còn cúng tháng 6 là lễ cúng kết thúc mùa vụ, như một cách tạ ơn thần rừng đã bảo vệ mùa màng, đã cho ngô, cho thóc để dân bản ấm no.
Cứ ba năm lại có một lễ cúng lớn. Lễ vật đem tế cho thần rừng là một con trâu, một con lợn và bốn con gà. Lễ cúng này thì tất cả mọi người trong bản sẽ tụ tập lại quanh đền, cùng mổ trâu, mổ lợn, gà để dâng cúng thần, rồi sau đó cùng nhau ăn uống linh đình, chúc tụng nhau cho tới khi trời tối. Kết thúc lễ lớn, mọi người lục tục kéo nhau về nhà, nhưng không ai được phép mang bất cứ thứ gì thừa ra khỏi rừng, đồ ăn không hết sẽ để lại ngay tại rừng, nếu không sẽ bị thần rừng trừng phạt.
Câu nói "rừng trừng phạt" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong câu chuyện của thầy cúng già. Nhưng với trưởng thôn Tiến Sỹ thì "nhờ ngôi đền thiêng mà cây rừng không bị chặt phá". Bởi người Nùng bản Cậy tin rằng rừng là nơi các vị thần trú ngụ, dân không được phép vào rừng chặt phá. Nhà ai trót dại vào rừng bẻ cành măng, ngọn trúc thì bị thần rừng phạt, dân bản phát hiện phải nộp thóc, góp gạo cho làng để làm lễ cúng thần. "Hầu như chưa có trường hợp chặt phá cây rừng nào xảy ra ở bản cả" - trưởng thôn đứng giữa rừng già tự hào khẳng định lại với chúng tôi.
Nguồn cội đền thiêng
Nhà già bản Vàng Pồ Thiền nằm vắt ngang một vạt đồi xanh mướt. Cây mận, cây đào lúc lỉu quả ở chái nhà chào đón khách. Pồ Thiền đã 94 tuổi nhưng đôi chân chưa biết mỏi. Trưởng thôn kể: Pồ Thiền vẫn thường đi bộ gần 10km đường rừng xuống chợ Su Phì mua quả dưa, con cá đãi con cháu mỗi khi có dịp. Tiếng chó sủa váng cả mấy quả đồi, Pồ Thiền từ trong mùng lục tục bước ra thềm ngó người lạ. Đôi tai cụ đã hỏng, nghe câu được câu không, tiếng Kinh không sõi, trưởng thôn Hoàng Tiến Sỹ trở thành người phiên dịch bất đắc dĩ cho chúng tôi.
Thầy cúng Vương Hữu Chương thắp hương trong ngôi đền tối tăm - Ảnh: Vũ Thủy
Từ trong trí nhớ mờ mịt của mình cụ kể chuyện như suối chảy: Tục cúng thần rừng bắt nguồn từ một chàng thanh niên vạm vỡ mang tên Vàng Pồ Tưởng. Pồ Tưởng là người dân bản, ngay từ khi Pồ Thiền mới chập chững, Pồ Tưởng đã là chàng thanh niên mới lớn; Pồ Tưởng tướng vạm vỡ, dẻo dai như cây mây, cây gai trong rừng.
Dân làng chăm chỉ khai nương, mở đất mà mùa màng vẫn bị sâu bọ phá hoại, bà con không có miếng ăn vào bụng. Nghe người ta kể ở bên kia ngọn núi mang tên Hoàng Dìn Thùng có vị thần rừng thiêng liêng bảo vệ mùa màng quanh năm, Pồ Tưởng quyết men theo rừng rậm, leo ngược về phía ngọn núi ấy để rước linh hồn thần rừng về phù hộ dân làng.
Sau khi lấy được hồn thần về, Pồ Tưởng định lập đền thờ ở con dốc nhỏ giữa thôn để cúng thần. Để làm lễ cúng thần, Pồ Tưởng đi bắt một con trâu to về làm thịt. Nhưng dắt mãi con trâu không chịu đi đến chân dốc, rồi bỗng dưng dây thừng tuột mũi, con trâu chạy liền một mạch vào giữa rừng sâu nằm xuống ở một bãi đất trống bằng phẳng, cây cối bao bọc xung quanh. Pồ Tưởng thấy vậy nghĩ rằng nơi con trâu nằm chính là nơi thần rừng muốn dựng đền để thờ phụng. Ngay lập tức, Pồ Tưởng cho lập đền thờ thần rừng chỗ con trâu to đã nằm.
Từ đó đến nay, đã hơn 100 năm tồn tại, mặc cho thời gian trầm tích, chiến tranh tàn phá, ngôi đền thiêng và khu rừng già ở bản Cậy vẫn sừng sững, quanh năm bảo vệ mùa màng. Và những cánh rừng ở đây cũng mãi trường tồn, như tấm lưng to bằng vách núi cho người Nùng dựa dẫm muôn đời.
Từ đó, những mong ước về sự sung túc cũng như những chuyện trừng phạt của thần rừng bắt đầu hình thành và lan ra từ ngôi đền thiêng. Đền thiêng đang bảo vệ cho sự tồn tại đơn độc của những người Nùng giữa núi này bằng sức mạnh của những câu chuyện ẩn giấu bên trong nó và tình yêu của người làng dành cho những ngày lễ lạt quen thuộc.
Chúng tôi rời bản Cậy khi sương mù chen kín trên những ngọn thông. Rừng ở đây bình yên quá, như chưa bao giờ phải sống trong cơn sợ hãi tuyệt vọng bởi những nhát cưa của lâm tặc hoành hành. Đền thiêng vẫn sẽ tiếp tục làm nhiệm vụ gìn giữ cánh rừng bản Cậy này.
Theo 24h
Tan nát những cánh rừng thiêng Chỉ một buổi sáng cơn lũ kéo qua, ruộng nương, đồng bãi bản Mòng (xã Hua La, TP Sơn La) tan tác. Những cánh rừng thiêng không còn để che chở bản làng nữa. Người già than khóc: "Trời phạt. Làng làm mất nhiều rừng quá nên phì pá (ma rừng) nổi giận trừng phạt". Trong câu chuyện về rừng, ông chủ tịch...