Cha đẻ ngành cảnh sát hiện đại Kỳ 1
Allan Pinkerton (bên trái) đứng bên tổng thống Mỹ Abraham Lincoln.
“Allan Pinkerton là một người có sức mạnh của trí tuệ và lòng can đảm, ngăn chặn một cách hữu hiệu những nỗ lực á.m s.át tổng thống Abaraham Lincoln”.
Allan Pinkerton, sinh ra ở Scotland nhưng mang quốc tịch Mỹ, là một trong những danh nhân vĩ đại nhất của lịch sử Hoa Kỳ. Theo sử gia Sigmund A.Lavine, “Allan Pinkerton là một người có sức mạnh của trí tuệ và lòng can đảm, ngăn chặn một cách hữu hiệu những nỗ lực á.m s.át tổng thống Abaraham Lincoln, thành lập một cơ quan tình báo chính thức đầu tiên, có nhiệm vụ điều tra những vấn đề lớn và bảo vệ tổng thống trong suốt những năm của cuộc nội chiến. Chính tổ chức này đã truy tìm và bắt giữ nhiều tên cướp khét tiếng như Jesse James, anh em nhà Reno và nhiều băng đảng tội phạm khác.”
Những thành công của Allan Pinkerton, đặc biệt trong việc khai sinh ra cơ quan tình báo quốc gia Pinkerton, đã góp phần lớn trong lịch sử phát triển của Hoa Kỳ suốt những năm cuối của thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Năm 2000, Cơ quan tình báo quốc gia Pinkerton vẫn còn phát triển mạnh, kỷ niệm 150 năm ngày ra đời.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi người đàn ông này trở thành thám tử vĩ đại của nước Mỹ và một trong những điều tra viên có tiếng của thế giới vì ông được sinh ra trong một gia đình “nhà nòi”. William Pinkerton, một trung sĩ cảnh sát ở Glasgow, Scotland, lần đầu tiên nghe tiếng con trai mình khóc chào đời vào ngày 25/8/1819.
Ngay từ nhỏ, cậu bé Allan Pinkerton đã bộc lộ lòng ưa mạo hiểm khiến bố mẹ không chút hài lòng. Allan thường trốn học để lang thang trong các khu rừng của Glasgow hoặc câu cá ở sông Clyde. Trong một cuộc bạo động chính trị bùng nổ ở quảng trường thành phố, ông William Pinkerton đã hi sinh. Cậu bé Allan sớm phải bỏ học để đi làm, đầu tiên là làm cho một cho một hãng sản xuất mô hình, sau đó làm thợ học việc ở xưởng đóng thùng McCauley. Trong những việc này, Allan thường được mọi người nể phục vì sự sáng dạ của mình.
Lớn lên, Allan gia nhập một tổ chức cách mạng tên là Chartists, đòi tiếng nói cho những người thuộc tầng lớp dưới trong chính phủ. Dĩ nhiên, chính quyền Anh không thích tổ chức này và nhanh chóng xác định những thành viên hoạt động tích cực nhất, trong đó có chàng thanh niên 22 t.uổi làm nghề đóng thùng Allan Pinkerton.
Video đang HOT
Ngày 13/3/1842, Allan kết hôn với một cô gái người Edinburgh tên là Joan Carfae. Kế hoạch tuần trăng mật của họ bị hủy bỏ khi một người bạn của Allan cấp tốc thông báo rằng một nhóm binh lính đang trên đường đến bắt Allan. Buổi sáng ngày hôm sau, “ông bà” Pinkerton đã có mặt trên chuyên tàu hướng tới Tân thế giới, một vùng đất mới nói tiếng Anh. Tuy nhiên, khi con tàu gần cập bến ở Halifax, Canada thì gặp bão. Toàn bộ hành khách may mắn thoát c.hết nhưng mất sạch tài sản. Không những thế, khi vào bờ, những người sống sót còn bị 1 băng cướp người da đỏ trấn lột hết những thứ còn lại. Vợ chồng Pinkerton mất nốt chiếc nhẫn trên tay của Joan.
Nhóm hành khách bị dạt vào bờ được một con tàu cứu. Allan và vợ tìm cách vào Mỹ thay vì Quebec như dự định. Allan quyết định đến thành phố Chicago – một thành phố đang phát triển và cần nhiều thợ như anh. Đúng như những gì Allan được nghe kể, Chicago rất sầm uất với nhiều khu công nghiệp và nhà máy. Allan nhanh chóng kiếm được việc làm ở nhà máy bia Lill’s và có được những đồng t.iền đầu tiên trên đất Mỹ. Công việc ở nhà máy bia Lill’s giúp vợ chồng Allan có được một cuộc sống ổn định, có của ăn của để như họ mong muốn.
Nhưng chẳng bao lâu, tính năng động và thông minh khiến Allan mong muốn có một cửa hiệu của riêng mình. Chàng trai này đã tìm được cơ hội ở thị trấn nhỏ Dundee, cách Chicago gần 50km, là nơi cần nhiều thợ nên Allan tới đó để kinh doanh. Công việc kinh doanh phát đạt nhanh chóng. Từ một xưởng nhỏ, Allan đã mở rộng thành nhà máy đóng thùng chỉ trong thời gian ngắn. Anh có 10 thợ làm thuê. Nhu cầu thùng lớn hơn những gì mà Allan dự đoán nhưng anh có thể đáp ứng được..
Năm 1846, Allan có cậu con trai đầu lòng được đặt theo tên ông nội, William. Sau đó, họ lại có một cặp song sinh tên là Robert và Joan. Để hạ giá thành sản phẩm, Allan rời xưởng và chèo thuyền ra một hòn đảo ở giữa sông đốn gỗ mà không biết rằng ngày này về sau sẽ khiến cuộc đời mình đi sang một ngã rẽ vô cùng quan trọng.
Theo 24h
Điệp viên xinh đẹp và liều lĩnh Kỳ 5
Mata Hari
Đúng một tháng sau khi trở về Paris, ngày 13 tháng 2, Mata Hari bị cảnh sát Pháp bắt và bị buộc tội làm gián điệp cho Đức.
Quả thật, ít hôm sau Liadu nhận được mật điện:
"Điệp viên H-21 đã tới Madrid. Đã bắt đầu làm được việc cho Pháp. Xin chỉ thị và xin t.iền. Đang cung cấp thông tin về các nơi đóng quân... Cũng cho biết rằng nhà hoạt động quốc gia Pháp N. đang có quan hệ mật thiết với một công nương nước ngoài...".
Trong điện trả lời, bộ chỉ huy Đức ra lệnh:
"Đề nghị H-21 về ngay nước Pháp và tiếp tục công việc. Nhận ngân phiếu của Kremer năm ngàn frank đề tên Kotuar de' Eskont".
Sau này người ta biết rằng không phải mọi thông tin về các trung đoàn của Pháp là chính xác, thông tin về những cuộc phiêu lưu tình ái của nhà hoạt động quốc gia cũng không có gì đáng chú ý lắm.
Đối với cuộc đời của Mata Hari, những bức điện ít ý nghĩa ấy lại là quyết định - cơ quan phản gián của Pháp đã nhận được lời khẳng định rằng chính cô ta là điệp viên của Đức mang tên H-21.
Nhưng đồng thời Mata Hari lại góp công lớn cho phản gián Pháp. Thông qua người tình của mình, điệp viên Đức Hans fon Kalle, cô biết rằng quân Đức đã biết về việc người Anh đổ quân bằng tầu ngầm lên cảng Marroco và bộ chỉ huy Đức đang chuẩn bị đ.ập tan số quân đó. Cô lập tức đến gặp điệp viên Pháp ở Madrid, đại tá Danvil, và thông báo cho ông biết. Đại tá mật báo về Paris. Bọn Đức đã bắt được điện ấy. Khi hiểu ra "gió thổi từ đâu", bộ chỉ huy tình báo đã nghiêm khắc cảnh cáo Hans fon Kalle, anh này lại mắng nhiếc thậm tệ người tình.
Mata Hari hiểu ra sự tình và đã quyết định đúng đắn: Cô chạy đến Danvil, cho ông biết chuyện buồn - người Đức đã biết mật mã của Pháp và đã đọc được các bức điện. Chỉ cần một thông tin đó, chưa kể đến thông tin trước đã cứu sống hàng trăm binh lính và thuỷ thủ, Mata Hari cũng đã xứng đáng được nhận khoản một triệu đồng mà Liadu đã hứa. Nhưng "lòng biết ơn" mà cô nhận được lại là dạng khác.
Chẳng bao lâu sau, Noel 1916, ở Tây Ban Nha, mặc dầu đang là thời kỳ chiến tranh, Mata Hari vẫn rất đỏm dáng và trang trọng đi về Paris. Mọi người đều muốn có chuyến đi này của cô: Người Đức muốn có vì cô hứa hẹn sẽ có thông tin quan trọng, phản gián Pháp cũng muốn vì "cánh chim" này đã tự bay vào bẫy của họ, còn chính Mata Hari cũng muốn vì cô hy vọng sẽ nhận được khoản t.iền một triệu.
"Vật hy sinh" của quân đội Pháp
Đúng một tháng sau khi trở về Paris, ngày 13 tháng 2, Mata Hari bị cảnh sát Pháp bắt và bị buộc tội làm gián điệp cho Đức.
Ngày 24 tháng 7 năm 1917, vụ án được đưa ra xét xử. Họ buộc tội Mata Hari là vì cô mà mười bẩy tàu chiến của liên quân bị chìm, gần một sư đoàn quân bị t.hiệt m.ạng. Tình cảnh của người đàn bà bất hạnh này lại càng sầu não thêm vì tất cả những lời buộc tội đó lại dựa trên nền tảng vững chắc của dư luận xã hội đã náo động lên vì sự thất bại của chiến dịch được gọi là "Nivel" - tức là cuộc tiến công mùa xuân của quân Pháp - mà lý do là vì bọn tình báo Đức, trước hết là Mata Hari. Trong chiến dịch này quân đồng Minh đã mất hơn hai trăm hai mươi ngàn binh lính và sĩ quan.
Các chuyên gia thì đ.ánh giá nguyên nhân thất bại do: Việc chuẩn bị chiến dịch kéo dài mà lơ là việc ngụy trang tác chiến và chiến thuật áp dụng phương thức tấn công lỗi thời là dùng đến sinh lực, không đ.ánh giá hết năm mươi hai sư đoàn dự bị chiến lược của Đức. Sau thất bại này có hàng loạt tướng tá bị cách chức và đuổi khỏi quân đội.
Thật ngọt ngào khi giải thích thất bại bằng sự phản bội của người đàn bà bất hạnh đã bị bắt hai tháng trước khi nổ ra cuộc tiến công kia, một tháng trước đó đã có những vấn đề riêng của mình, hơn nữa lại mất liên lạc với bộ chỉ huy Đức! Thật quan trọng khi tìm được "vật hy sinh"! Nhân dân đang cần m.áu để trả nợ m.áu đã đổ trên bãi chiến trường.
Dù sao đi nữa thì tiết lộ bí mật về cuộc tấn công đó vẫn là tội chính. Còn một tội nữa là nhận t.iền của Đức. Mata Hari nói rằng một phần t.iền ấy cô nhận được không phải vì hoạt động gián điệp, còn một phần khác thì do bọn điệp viên Đức gán ghép cho cô để chúng thanh toán các khoản chi tiêu của chúng, nhưng toà án không chấp nhận. Toà nhất trí tuyên án t.ử h.ình.
Margaret Tselle chờ đợi cái c.hết của mình trong phòng đơn của nhà tù Sen-Lazar. Cho đến phút chót cô vẫn đóng vai Mata Hari của chính mình: Cô vẫn múa những điệu múa lễ thức trước những người tu hành đến an ủi cô và khuyên cô nhập đạo, cô đã hứa nói ra ba điều bí mật cho một ông bác sĩ: điều thứ nhất - cho ông tình yêu, điều thứ hai - cho ông t.iền bạc và điều thứ ba - cho ông cuộc sống vĩnh hằng một ông luật sư già yêu cầu cô tuyên bố rằng cô đã có mang với ông, nghe xong cô đã cười lớn.
Theo 24h
Điệp viên xinh đẹp và liều lĩnh Kỳ 4 Điệp viên Mata Hari quyến rũ và tham vọng Sau cuộc phiêu lưu tình ái với "chàng" thua 20 t.uổi, Mata làm điệp viên cho cả Pháp và Đức vì... t.iền. Với mong muốn trở lại Paris nhưng vì tình hình an ninh đang quá căng thẳng, Mata Hari lại bị các sỹ quan Pháp nghi ngờ là gián điệp của Đức khiến...