(CĐ 18) Kỳ 93 Tình báo điện tử Anh: Thảm kịch Canada
Điều được đề cập ở trên liên quan đến các trường hợp làm gián điệp trong GCHQ mà Anh xem là chắc chắn cho tình báo Liên Xô. Thế còn những vụ “không công khai”?
Một trong những vụ đó có liên quan đến Lesley Benneth, người giữ nhiều chức vụ lãnh đạo trong GCHQ. Chức vụ cuối cùng là trưởng phòng Cận Đông của GCHQ. Năm 1954, Benneth đã di cư sang Canada và tại đó ông lãnh đạo một phòng của cơ quan an ninh quốc gia Canada.
Trong thập niên 1960, sau một loạt chiến dịch do thám chống Liên Xô bị bại lộ, người ta đã tiến hành theo dõi Benneth. Do không có những chứng cứ trực tiếp nên vụ việc đã biến thành vô lý. Những thám tử của đơn vị theo dõi ngoài Canada đã nảy sinh nghi ngờ Benneth sử dụng bồ câu đưa thư để liên lạc với KGB. Bởi vậy, họ đã nhiều lần bám theo ông ta từ nhà đến những cánh rừng nhỏ, nơi Benneth thường lấy từ cốp xe ôtô ra một tấm lưới thép.
Những kẻ theo dõi không dám đến gần Benneth quá để nhìn rõ ông ta thả con gì ra khỏi lồng, nhưng họ phỏng đoán điều tồi tệ nhất. Trên thực tế Benneth chỉ bắt những con sóc sinh sôi nảy nở trong vườn nhà ông và vốn là người tốt bụng nên ông sau đó lại thả chúng vào rừng.
Khi đó, các thợ săn gián điệp Liên Xô không mệt mỏi ở Canada quyết định quăng lưới bắt Benneth. Ông đã bị bơm tin giả nói rằng một kẻ đào tẩu Xô-viết sẽ bay đến Montreal. Như thế nếu như các nhân viên KGB xuất hiện tại sân bay để theo dõi kẻ đào tẩu thì điều đó có nghĩa Benneth đã báo tin này cho họ. Nhưng cơn bão tuyết dữ dội đột ngột ở Monttreal đã phá hỏng tất cả. Trong bão tuyết, người ta không thể xác định là có nhân viên KGB náo đến điểm gặp ở sân bay hay không.
Năm 1972, Benneth trải qua cuộc thẩm vấn gay go nhất, nhưng ông không hề khai nhận gì. Và tuy Benneth đã vượt qua cuộc kiểm tra trên máy phát hiện nói dối và thề không bao giờ là gián điệp của Liên Xô, nhưng sau nhiều năm làm việc, ông vẫn bị sa thải khỏi cơ quan và đã sang Australia sinh sống. Cho đến nay vẫn chưa rõ ông có phải là một tình báo viên thay đổi chỗ làm theo lệnh của cấp trên ở Moskva không, hay chỉ là nạn nhân vô tội của một âm mưu hiểm độc.
Trường hợp Benneth không phải là điển hình đối với cộng đồng tình báo Anh. Những tin tức phát giác ra điệp viên nước ngoài ít khi được đưa ra công luận. Trong toàn bộ lịch sử GCHQ, chỉ có một lần một nhân viên cơ quan này bị tuyên bố là điệp viên của tình báo Liên Xô.
Video đang HOT
Cần phải ghi nhận là GCHQ luôn bảo vệ cẩn mật các bí mật của mình trước tai mắt người ngoài. Trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này có lẽ là việc GCHQ bất lực trong việc kịp thời phát hiện điệp viên nguy hiểm nhất trong số nhân viên của mình là Prime. Prime bị bắt hoàn toàn do lệch lạc tình dục. Cũng có thể liệt vào đây việc xuất bản cuốn sách của Nigel West “GCHQ. Cuộc chiến vô tuyến bí mật (1900-1986)” với chủ đề chính là lịch sử ngành tình báo vô tuyến điện tử Anh, kể cả một biên niên sử những hành động vinh quang của GCHQ.
Đầu thập niên 1980, việc giải mật các tài liệu lưu trữ liên quan đến tình báo vô tuyến điện tử thời chiến tranh thế giới thứ II đã dẫn tới lời hứa của chính phủ Anh cũng làm như vậy với tài liệu lưu trữ thời chiến tranh thế giới thứ I. Tuy vậy, chính phủ Anh kiên quyết từ chối không cho tiếp cận các tài liệu chặn thu tích trữ ở Anh trong thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến thế giới.
Kết quả là trong thập niên 1980 đã hình thành một tình huống oái oăm khi nội dung chặn thu từ các kênh liên lạc của Pháp đầu thập niên 1920 lại còn bí mật hơn những cái thu được từ các kênh liên lạc của Đức đầu thập niên 1940. Người đưa ra lời giải thích chính thức cho sự dị thường này là Robert Armstrong, thư ký nội các Anh hồi đó. Ông ta tuyên bố chính phủ Anh coi bất kỳ tài liệu nào về hoạt động do thám mà các cơ quan tình báo phải báo cáo với mình trong thời bình còn bí mật hơn các tài liệu về hoạt động tình báo chống lại kẻ thù trong thời chiến. Và chấm hết.
Như vậy là các bồi bút hiếu động cố sưởi ấm tay nhờ các sự việc được “xào nấu” từ lịch sử tình báo vô tuyến điện tử Anh, cũng đã có thể khỏi phải lo lắng và thanh thản đợi đến chiến tranh thế giới thứ III. Nếu họ không sống đến lúc đó thì họ cũng sẽ tìm thấy cái gì đó để kể cho những người còn sống bởi vì xét tổng thể, chính các kênh liên lạc sóng điện và hữu tuyến mới là chiến trường cho các trận đánh quyết định trong cuộc chiến nhằm giành quyền thống trị thế giới đó.
(Còn tiếp)
Ban biên tập
Theo NTD
(CĐ 18) Kỳ 90 Tình báo điện tử Anh: Những quan hệ đặc biệt
Cả NSA cũng rất quan tâm đến việc bảo vệ bí mật cho GCHQ. Lý do rất đơn giản. Vấn đề là ở chỗ, vào năm 1934, Mỹ đã thông qua luật liên bang cấm chặn thu điện tín từ các kênh liên lạc của Mỹ.
Với sự tham gia thụ động của GCHQ, lợi dụng thực tế là đa số điện tín từ Mỹ đến các nước khác đi qua kênh vệ tinh, tiếp đó qua các trạm tiếp phát trên bộ, trong đó có cả ở Anh, NSA đã xây dựng ở đó hai trạm chặn thu. Thông tin chặn thu bằng cách đó sau đó được chuyển thẳng tới các máy tính ở Fort Meade để xử lý.
Đa số điện tín chặn thu không cần phải giải mã vì được gửi bằng bản rõ. Ngay trước vụ Watergate và do một loạt chất vấn của các nghị sĩ Mỹ về các phương pháp tình báo vô tuyến điện tử, NSA đã từ bỏ kiểu chặn thu tin từ các kênh liên lạc của Mỹ nhằm né tránh luật năm 1934 này.
Thập kỷ 1970 đã mang đến cho các cơ quan chặn thu của Anh và Mỹ một loạt khó khăn ngoài dự kiến. Những khó khăn chủ yếu là:
Năm 1971: Alende trúng cử tổng thống Chile đã khiến Mỹ phải rút trạm chặn thu của NSA khỏi lãnh thổ nước này;
Năm 1972: Các phần tử khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ đã giết 4 nhân viên vận hành một trạm chặn thu của GCHQ ở Sinop, trên bờ biển Đen;
Năm 1975: Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đóng cửa các trạm chặn thu của NSA trên lãnh thổ nước mình để trả đũa lệnh cấm vận mà Mỹ áp dụng sau khi Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng đảo Síp;
Năm 1977: Hoàng đế Ethiopia bị lật đổ dẫn đến việc tháo dỡ trạm chặn thu của NSA ở Ethiopia;
Năm 1979: Sau khi quốc vương Pahlevi ở Iran sụp đổ, NSA đã phải trả một khoản tiền chuộc lớn để sơ tán nhân viên và trang thiết bị của trạm chặn thu của mình ra khỏi nước này.
Tuy vậy, trong thập niên 1970, không chỉ có các tổn thất mà có cả những thắng lợi. Cụ thể, được sự ủng hộ của lãnh đạo Trung Quốc, NSA và GCHQ đã triển khai hai trạm chặn thu ở vùng Himalaya, cách không xa biên giới Liên Xô.
Chỉ vào thập niên 1980, quy mô thực tế của các chiến dịch tình báo vô tuyến điện tử của Mỹ và Anh mới dần hiện rõ, mặc dù họ bắt đầu hợp tác với nhau từ năm 1947. Chính hồi đó, Hiệp ước UKUSA tuyệt mật đã gắn bó GCHQ với NSA đang ở dạng phôi thai. Từ đó, "phôi thai" yếu ớt ấy đã kịp trở thành thủ lĩnh không thể tranh cãi trong lĩnh vực tình báo vô tuyến điện tử thế giới.
Cả hai cơ quan tình báo này, tuy có những xích mích nhỏ, vẫn duy trì quan hệ mật thiết với nhau. Bởi lẽ, không phải vô cớ mà khi phát biểu trước các đồng nghiệp Mỹ, người lãnh đạo GCHQ một lần đã nói rằng, họ đã tìm được cách giắt vải trải gường rất chặt cho chiếc giường họ cùng nằm, và ông ta cũng như người Mỹ đều rất hài lòng với mối quan hệ đó.
Và vấn đề không chỉ ở chỗ có thể tiến hành theo dõi toàn cầu bằng cách phân vùng trách nhiệm (chẳng hạn GCHQ phụ trách theo dõi châu Âu và lãnh thổ ở phía Đông dãy Ural). Sự hợp tác giữa NSA và GCHQ đã giúp giải quyết các vấn đề pháp lý rắc rối. Nếu GCHQ nghe lén các cuộc gọi điện thoại của các công dân Mỹ, còn NSA làm điều tương tự với công dân Anh, thì chính phủ hai nước có đủ căn cứ để bác bỏ sự cáo buộc là họ theo dõi đồng bào mình, mặc dù trên thực tế thì đúng là như vậy.
Ngoài NSA, GCHQ duy trì quan hệ rất gần gũi với cơ quan tình báo vô tuyến điện tử của Australia là Cục Thông tin liên lạc Quốc phòng DSD (Defence Signals Directorate). Quan hệ đó là kết quả của sự giúp đỡ tích cực mà GCHQ giành cho Australia nhằm thành Phòng Thông tin liên lạc Quốc phòng DSB (Defence Signals Bureau) tiền thân của Cục DSD ngay sau chiến tranh thế giới thứ II. Hai giám đốc của DSB là công dân Anh.
(Còn tiếp)
Ban biên tập
Theo NTD
(CĐ 18) Kỳ 89 Tình báo điện tử Anh: Gián điệp ở khắp nơi Vụ xì căng đan liên quan đến Martin và Mitchell, và các nhân viên NSA khác đã buộc người Anh cũng phải suy nghĩ nghiêm túc. GCHQ với khả năng của mình đã tham gia săn tìm các điệp viên Liên Xô. Cùng với việc giải mã các bức điện hiện tại từ các kênh liên lạc của Liên Xô, các chuyên gia...