Cây sầu đâu rừng
Tôi thường nghe nói về lá sầu đâu, cây sầu đâu, nhưng không biết cây mọc như thế nào, ở đâu và tác dụng chữa bệnh của cây ra sao? Xin bác sĩ giải thích công dụng và chỉ dẫn cho cách dùng.
(Hoàng Văn Hoan – Quảng Trị)
Còn gọi là cây sầu đâu cứt chuột, hạt khổ sâm, khổ luyện tử, nha đảm tử, chù mền, san đực (Sầm Sơn), cứt cò (Vĩnh Linh), bạt bỉnh (Nghệ An). Tên khoa học Brucea javanica (L) Merr (Brucea sumatrana Roxb).
Thuộc họ thanh thất Simaruba-ceae.
Cây sầu đâu rừng cho vị nha đảm tử (Fructus Bruceae hay Brucea hoặc Semen Bruceae) còn gọi là khổ luyện tử hay khổ sâm hay quả xoan đâu rừng là quả khô của cây sầu đâu rừng.
Chớ nhầm quả này với quả xoan Melia azedarach L. thuộc họ xoan (Meliaceae) người ta lấy gỗ làm nhà, vỏ rễ để trị giun, người ta cũng gọi quả xoan là khổ luyện tử.
Mô tả cây
Cây sầu đâu rừng nhỏ, cao độ 1,60 đến 2,5m, thân yếu không thành gỗ và không to như cây xoan làm nhà. Lá xẻ lông chim không đều, 4 – 6 đôi lá chét. Hoa nhỏ khác gốc, mọc thành chùm xim.
Video đang HOT
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây sầu đâu rừng mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta: Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảnh Bình, Quảng Trị, Huế… đâu cũng có. Chưa được tổ chức trồng. Nhưng ngay với nguồn mọc hoang dại, hiện nay mỗi năm tổ chức tốt, ta cũng có thể thu mua được 3 – 5 tấn. Quả chín hái về phơi hay sấy khô, loại bỏ tạp chất, không phải chế biến gì khác. Quả khô bảo quản hàng 10 năm gần như không hỏng và không giảm tác dụng. Mùa thu hái từ tháng 8 đến tháng 12.
Công dụng và liều dùng
Tính vị theo Đông y: Vị đắng, tính hàn, vào kinh đại tràng. Tác dụng táo thấp (làm khô cái ẩm ướt), sát trùng. Chữa sốt rét, những người tỳ vị hư nhược nôn mửa cấm dùng. Đây là một loại thuốc lỵ đã được dùng lâu đời ở nhiều nước nhiệt đới: Tại Việt Nam, vị thuốc được ghi với tên “xoan rừng” trong bộ Nam dược thần hiệu của Tuệ tĩnh (thế kỷ 17), tại Trung Quốc vị thuốc lần đầu tiên thấy được ghi với tên nha đảm tử trong Bản thảo thập di của Triệu Học Mẫn (1765).
Cách dùng: Ngày dùng 10 – 14 quả, có thể tới 20 quả, tán nhỏ, làm thành viên 0,10g toàn quả hoặc 0,02g nhân đã khử dầu mà uống. Uống liền 3 – 4 ngày đến một tuần lễ.
Thường chỉ 1 – 2 ngày là khỏi. Nhưng nên uống liền trong 5 – 7 ngày cho hết hẳn. Có thể bỏ vỏ, ép hết dầu vì dầu có tính chất kích thích, gây nôn và tiêu lỏng. Ngoài công dụng chữa lỵ, nha đảm tử còn có tác dụng chữa tiêu lỏng, viêm ruột thừa, chữa sốt rét.
Có thể dùng dưới dạng thụt: Lấy 20 – 30 hạt giã nhỏ, ngâm vào 200ml dung dịch 1% Natri bicacbonat, sau 1 – 2 giờ lọc lấy nước thụt giữ.Nha đảm tử có độc, uống quá liều có thể gây đau bụng, nôn mửa, kém ăn, người mệt. Khi thụt thì ít hiện tượng độc hơn. Dùng uống với liều kể trên thường không xảy ra hiện tượng độc nào, hoặc chỉ thấy nôn nao, buồn nôn, ngừng thuốc sẽ hết ngay.
Để chữa sốt rét: Ngày uống 3 lần sau bữa ăn. Mỗi lần uống 1g quả. Uống liền 4 – 5 ngày. Phụ nữ có thai vẫn dùng được.
Viên nha đảm tử 5mg: Trẻ 1 tuổi: Ngày 2 – 4 viên; 2 tuổi: ngày 3 – 6 viên; 3 tuổi: ngày 4 – 8 viên; 4 tuổi: ngày 5 – 10 viên; trên 4 tuổi: dùng viên nha đảm từ 20mg, ngày 5 – 10 viên. Có thể uống 15 – 20 viên, chia làm nhiều lần uống, mỗi lần 1 – 2 viên.
GS. ĐỖ TẤT LỢI
Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam/suckhoedoisong
Ý nghĩa dược lý trầu cau
Trầu cau vừa là nét đẹp văn hóa ngày Tết, vừa mang ý nghĩa về dược lý, hóa học, tạo ra nhiều bài thuốc trị liệu.
"Miếng trầu là đầu câu chuyện", tục ăn trầu cau từ xa xưa là một nét đẹp văn hóa truyền thống người Việt, trở thành một nếp sống đẹp. Tết đến xuân về, trầu cau còn được sử dụng làm quà tặng.
Miếng trầu chỉ là một món nhai chơi nhưng lại nhiều ý nghĩa.
Cây trầu, quả cau
Cây trầu họ Hồ tiêu, lá có vị cay nồng, mùi thơm gắt, tính ấm, tác dụng hoạt khí, tiêu đờm, trừ phong thấp, tiêu viêm và sát trùng. Trong cuốn " Món ăn bài thuốc" của bác sĩ Nguyễn Minh Ngọc, người ta dùng lá trầu để trị đau bụng, đầy hơi, ợ hơi. Cách dùng như sau: hơ nóng lá trầu rồi đắp lên rốn hoặc vào các huyệt khí rồi dùng nhang hơ nóng phía trên. Việc hơ nóng có mục đích làm thuốc chất ngấm qua da vào phần trong để hành khí hoạt huyết.
Có người dùng lá trầu để đánh gió, trị cảm mạo. Cách dùng như sau: vò nát lá trầu, bọc vào trong miếng vải, nhúng nước sôi, đánh gió ở hai bên sống lưng (bàng quang kinh) với mục đích thông khí, đuổi tà khí. Cách này áp dụng cho trẻ em rất tốt vì da trẻ còn mỏng, không nên cạo gió.
Người ta còn dùng lá vò nát đắp quanh mụn nhọt, hoặc nấu nước tắm trị rôm sảy, ghẻ ngứa. Ngậm nước lá trầu trong miệng để trị bệnh viêm nha chu. Lá có các chất polyphenol kháng khuẩn, diệt được các khuẩn tụ cầu, trực trùng coli...
Trầu cau là một nét đẹp trong văn hóa người Việt. Ảnh: Flickr
Đi liền với lá trầu không thể thiếu quả cau. Quả cau còn được gọi là bình lang, vị chát, hơi cay, tính ấm, đi vào các kinh tỳ vị, đại và tiểu trường. Quả cau có tính hạ khí, hành thủy, tác dụng sát trùng. Vỏ lợi tiểu. Hạt trị giun sán, bụng đầy chướng, tả lỵ. Trong quả cau còn có nhiều tanin và một alcaloit là arecolin. Hạt cau làm liệt thần kinh giun sán, giun sán không còn bám víu vào thành ruột được và dễ bị đẩy ra ngoài, dùng phối hợp với các thuốc khác.
Vôi ăn trầu
Vôi ăn trầu là vôi tôi để lâu. Calci hydronxyd hút CO2 để thành CaCO3 - vôi ăn trầu là hỗn hợp Ca(OH)2 và CaCO3, cho nên người rành ăn trầu không ăn vôi mới. Khi ăn trầu, dùng nhiều vôi có thể bị phỏng niêm mạc.
Phối hợp ba loại "trầu, cau, vôi" tạo thành một bài thuốc nhiều tính chất trị liệu, cũng như tạo ra nhiều hiện tượng hóa học và dược lý. Nhai nát lá trầu với cau rồi cho thêm một chút vôi tôi khiến miếng trầu có màu đỏ máu. Arecolin của hạt cau có tính kích thích tuyến nước bọt. Vì thế khi ăn trầu, phải luôn có ống nhổ kề bên để nhổ nước trầu, nếu khạc nhổ bừa bãi sẽ gây mất vệ sinh.
Arecolin của hạt có tác dụng làm chậm nhịp tim, tuy nhiên tính chất này bị triệt tiêu khi có muối vôi (Calci), do đó ăn trầu không sợ bị xáo trộn về nhịp tim. Đây cũng là một điều đáng ngạc nhiên khi ngày xưa, chưa ai biết làm thí nghiệm dược lý, chưa ai biết chất vôi ức chế tác dụng Arecolin thế nào.
Miếng trầu từ lâu được biết đến công dụng bảo vệ hàm răng bởi lá trầu có tính chất sát trùng. Chất chát làm cho nướu răng co lại, ôm sát chân răng giúp hàm răng cứng, không bị lung lay. Tính sát trùng của lá trầu làm cho chân răng không bị sưng. Nhai trầu cũng là một tác động luyện tập hàm răng, cũng như người châu Âu nhai kẹo cao su. Đây là một phương pháp vật lý trị liệu rất hay.
Ăn trầu có thể ngừa nhiều bệnh, tuy nhiên cần lưu ý một số vấn đề. Bã trầu và miếng trầu dính kẽ răng làm mất thẩm mỹ. Nước trầu nồng và chát, làm cho vị giác hết tinh vi, không nhận biết được các vị khác, môi khô. Vì vậy, sau khi ăn trầu nên đánh răng súc miệng.
Thúy Quỳnh
Theo VNE
Ba thảo mộc giúp cơ thể thải độc Nghệ, gừng, tỏi giàu chất chống oxy hóa, chống viêm, kháng khuẩn giúp thải độc tố ra khỏi gan, thanh lọc cơ thể. Ảnh minh họa Củ nghệ có nhiều đặc tính chữa bệnh, giúp thanh lọc cơ thể. Gừng có đặc tính kháng khuẩn, sát trùng, chống viêm. Có thể ngâm gừng và mật ong uống hàng ngày để thải độc. Hỗn...