Câu chuyện về “cuốn sổ đỏ” 400 năm tuổ.i
Ít ai biết được giữa lòng Thủ đô Hà Nội đang tồn tại 1 cuốn sổ đỏ bằng đá với niên đại gần 4 thế kỷ. Cuốn sổ đỏ đặc biệt này như “văn bằng chứng chỉ” bằng đá với cái tên “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” có một không hai của cả nước. Nó không chỉ là minh chứng cho 1 vùng “địa linh nhân kiệt” mà còn là một báu vật quốc gia. Sau bao biến cố thăng trầm, cuốn sổ đỏ kỳ lạ này đang được lưu giữ tại ngôi đình Đông Tác, phường Phương Liên (Đống Đa, Hà Nội).
Thăng trầm báu vật quốc gia
Phường Phương Liên (Đống Đa, Hà Nội) trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nổi tiếng là vùng “địa linh nhân kiệt”. Cho đến ngày nay ở đó vẫn còn gìn giữ nhiều di tích lịch sử văn hóa hàng nghìn năm. Không những vậy đình Kim Liên được biết đến là Trấn phía Nam thành Thăng Long (trong tứ trấn Thăng Long). Và chính nơi đây vẫn còn đang lưu giữ cuốn sách cổ bằng đá. Cuốn sách mà người dân gọi là “cuốn sổ đỏ” này đã tồn tại cùng với thời gian gần 4 thế kỷ.
Cụ Tế Trưởng Ban bảo vệ di tích đình Trung Tự đưa chúng tôi tận mắt chiêm ngưỡng “cuốn sổ đỏ” kỳ lạ này. Thực chất “cuốn sổ đỏ” này là 2 tấm đá úp mặt vào nhau. Cả 2 đều hình vuông, vát cạnh giống như hình con dấu triện mỗi cạnh dài 76cm. Tấm dưới dày 50cm, tấm trên dày 18cm. Tấm dưới như thân hộp còn tấm trên như nắp hộp đậy lên. Do biến cố lịch sử và thời gian nên “cuốn sổ đỏ” này có nhiều vết sứt mẻ, nứt rạn ngang dọc.
Cuốn “sổ đỏ” được nhân dân thờ phụng trong khuôn viên đình
Để tìm hiểu nội dung, lịch sử và những thăng trầm của “cuốn sổ đỏ” này chúng tôi được người dân chỉ tới cụ Nguyễn Trà – người có duyên và nặng lòng nhất với cuốn sổ đỏ bằng đá này. Đã ngoài 80 tuổ.i nhưng cụ vẫn còn khá minh mẫn. Chẳng thế giấu được niềm vui của cụ khi có người hỏi đến chuyện cuốn “sổ đá”. Cụ bảo: “Các anh hỏi về cuốn sổ đá vào đây là đúng địa chỉ rồi đó. Bây giờ có mấy ai muốn tìm hiểu những gì thuộc về lịch sử xa xưa đâu. Từ ngày về hưu tôi trực tiếp làm công việc bảo quản cũng như nghiên cứu cuốn sổ đỏ này chưa thấy ai hỏi tới nó cả”.
Quả đúng như những gì chúng tôi kỳ vọng, cụ Trà thuộc từng chữ trong “cuốn sổ đỏ” như lòng bàn tay. Cụ chia sẻ: “Thực ra đây như một cuốn sách, chỉ 2 trang nhưng có biết bao câu chuyên về nó. Không những vậy, cuốn sách cổ này đã chứng tỏ một điều: đây là vùng đất sản sinh ra rất nhiều nhân tài, nhiều học sĩ cho nước nhà”.
Cụ Trà cho biết, hai mặt đá hình dấu triện, mặt dưới có 700 chữ, mặt trên có 600 chữ úp vào nhau, được khắc tạc bằng chữ nho và được khắc rất tinh tế. Đây là văn bia, là chứng tích minh chứng cho mảnh đất này được vua phong cho tổ tiên người làng Trung Tự để ghi nhận công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đá ghi lại toàn bộ quá trình từ khi đòi đất đến khi được quan trên phán quyết trả lại đất cho dân làng Trung Tự.
Nội dung mặt đá dưới gồm 2 phần chính. Phần thứ nhất đại ý là tờ trình của dân làng Trung Tự gửi quan trên: “… Đất thổ cư của bản thôn, phía Đông giáp Kim Hoa phường, Tây giáp Kiều Thượng, Kiều Hạ, Bắc giáp xã Đinh Huân, Nam gần hào ngoài thành Đại La…
Trước đây đất đai bị quân phòng chiếm, chỉ còn khu đình chùa và một vài nhà dân. Tuy người dân phải dời đi nơi khác, nhưng những việc hộ tịch, thi cử, tuyển mộ thì dân làng vẫn theo lệ cũ… Kính mong quan trên giúp cho dân chúng tôi trở về làng an cư phục nghiệp”.
Video đang HOT
Phần thứ hai là tờ trình của quan Phụng Sai, đề ngày 10 tháng 6 năm Quý Sửu, đời vua Lê Gia Tông, niên hiệu Dương Đức 2 (năm 1673) tóm tắt như sau: “Các thửa đất tên là đất của tổ tiên dân làng Trung Tự được phong từ trước, gồm cả đầm, ao đã tra xét… bị quân phòng chiếm rồi sau quân doanh làm nhà ở… Kính xin chiếu chỉ quan trên chuẩn trả lại đất đai cho dân làng trở về an cư phục nghiệp, không được phiêu cư sang huyện Quảng Đức”.
Cụ Trà đang kể lại lịch sử về cuốn sổ đỏ
Nói đến đây cụ Nguyễn Trà cười thâm thúy: “Sở dĩ hai mặt đá có chữ được ốp vào nhau mục đích để tránh nắng mưa và tránh thời gian làm xói mòn. Hơn nữa cuốn sổ này hình dấu triện là hình ảnh tượng trưng cho pháp lý, cho sự công nhận của triều đình với nội dung được tạc bên trong”.
Lưu truyền cuộc ẩu đả giữa hai làng
Cuối thế kỷ thứ 16 người dân làng Trung Tự phải rời nơi “chôn nhau cắt rốn”, bỏ nhà cửa, lang bạt dìu dắt nhau nương náu nhiều nơi vì Thái phó Việt Quận Công đã chiếm đất của nhân dân làm quân phòng, sau đó làm quân doanh. Người làng Trung Tự đã đi kiện đòi đất. Sau cả chục năm sống cảnh “ăn nhờ ở đậu”, nỗi khốn cùng của người dân Trung Tự đã thấu đến tai nhà Vua. Và đến năm 1673, dân làng Trung Tự được quay trở lại và gây dựng lại cơ đồ.
Chưa dừng lại ở đó, 4 năm sau dân làng Trung Tự lại bị làng khác khiếu kiện và cho rằng họ đã bị lấn đất. May mắn lúc đó, các quan xã đã xác định việc t.ố cá.o này là không đúng sự thực. Chính từ đây, “cuốn sổ đỏ” kia được hình thành. Vua cho dựng tấm bia đá như một giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất, vừa như một cột mốc giới phân định rõ ranh giới giữa hai làng để tránh sự tranh chấp có thể xảy ra sau này.
“Cuốn sổ đỏ” đặc biệt của làng Trung Tự ra đời cũng trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đã có thời gian “sổ đỏ” này đã rơi vào quên lãng. Từ năm 1954 đến 1980 nó bị hắt hủi nằm như vật vô tri, tủi phận bên lề đường làng. Và cho đến năm 1982, cụ Bùi Huy Lân cùng với một số thanh niên đã bê hai tảng đá này vào trong sân đình và đặt ngay cạnh gốc thị trăm tuổ.i.
Cuốn gia phả họ Nguyễn làng Trung Tự ghi lại toàn bộ lịch sử cũng như những thăng trầm của cuốn sổ đỏ 400 năm
Cụ Trà kể lại: “đến mãi năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội, dòng họ Nguyễn chúng tôi đã góp công, của xây dựng cuốn thư và 2 nhà bia rồi “rước” cuốn “sổ đỏ” vào trong sân đình để gìn giữ cho muôn đời sau”. Đã gần 400 năm trôi qua, những nét chữ vẫn còn nguyên vẹn và sắc nét.
Gần 4 thế kỷ trôi qua, sự nghiệt ngã của thời gian đủ để phá hủy bất cứ một thư tịch cổ nào, nhưng với văn bia đá này nó sẽ còn mãi, trường tồn. Nó là niềm tự hào của dân làng Trung Tự, là vật báu quốc gia.
Nói đến đây cụ Trà cười vui vẻ: “Thế mới biết việc tranh chấp đất đai không phải bây giờ mới có. Có lẽ đây là “cuốn sổ đỏ” đầu tiên của nước ta! Chúng tôi sẽ cố gắng bảo vệ và gìn giữ nó như một báu vật để con cháu đời sau biết được một dấu mốc lịch sử của địa phương”.
Giáo sư Sử học Lê Văn Lan: Đây là một hình thức sổ đỏ, ra đời trong hoàn cảnh tranh chấp đất đai giữa hai dòng họ. Việc khẳng định chủ quyền sử dụng đất của mình trên đá đã thể hiện sự cố gắng và quyết tâm của dòng họ Nguyễn. Chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ những giá trị lịch sử ấy.
Theo tác giả Tô Hoài – Nguyễn Vinh Phúc trong sách “Hỏi đáp 1000 năm Thăng Long Hà Nội”, tấm bia này thể hiện một điều độc đáo sau: “Từ thời xa xưa, các văn bản công nhận quyền sở hữu ruộng đất phải đem khắc vào bia để mong lưu truyền mãi mãi, mà thậm chí là bia hộp để tránh cho chữ khỏi bị mưa gió bào mòn theo thời gian.
“Văn bia “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” do Hoàng Giáp Nguyễn Trù, Tế Tửu Quốc Tử Giám, tước Xương phái hầu soạn, và do Thị Nội Tiến Thư Tả Binh Phiên Sở Xứ Quách Đăng Đài khắc ngày mồng 2 tháng 6 năm Quý Sửu, đời vua Lê Thuần Tông, niên hiệu Long Đức 2 (1733). Hoàng Giáp Nguyễn Trù đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697), thuộc thế hệ thứ 8 của dòng họ Nguyễn Đông Tác – Trung Tự, Hà Nội.
Năm 1992, bia đá hộp được xếp hạng di tích lịch sử. Hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa của đình Trung Tự đán.h giá về khối bia hộp như sau: “Khối bia hộp duy nhất tìm thấy ở nội thành, một loại hình di vật độc đáo đặc biệt quý hiếm trong Di sản văn hóa nước nhà” (Theo Quyết định số 776/QĐ của Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao ngày 23/6/1992).
Theo 24h
80 tấm bản đồ cổ khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam
Từ thông tin bạn đọc về 80 tấm bản đồ cổ khẳng định các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam, đang được anh Trần Thắng - Chủ tịch Viện Văn hóa giáo dục VN (IVCE) tại Mỹ - sưu tầm, lưu giữ.
Bản đồ cổ Vương quốc Trung Hoa (The Kingdom of China) năm 1626 (biên giới Trung Hoa đến đảo Hải Nam).
Chúng tôi liên lạc với tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng - người thân thiết và có mối quan tâm chung với Trần Thắng về những tấm bản đồ cổ về Hoàng Sa, Trường Sa để tìm hiểu. Câu chuyện về 80 tấm bản đồ cổ có giá trị, được người con xa xứ dày công tìm kiếm, sưu tập và lưu giữ, thể hiện lòng yêu nước sâu đậm của mỗi người dân Việt.
Vừa nghe dứt yêu cầu của tôi, TS Trần Đức Anh Sơn đã nói ngay, giọng không giấu được sự hồ hởi: "Thắng sẽ chuyển về nước 80 tấm bản đồ cổ và tôi là người quản lý số tài liệu này. Ngoài ra, anh còn tặng cho Đà Nẵng một cuốn atlas trong bộ sưu tập. Dự kiến, đầu tháng 11 này sẽ có cuộc triển lãm đầu tiên tại Khánh Hòa".
Trần Thắng với bộ sưu tập bản đồ cổ (ảnh nhỏ).ảnh: IVCE.org
Từ năm 2010, khi vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc bắt đầu nóng lên, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng (Viện NCPT ĐN) cũng đang triển khai đề tài nghiên cứu "Font tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa - thành phố Đà Nẵng".
TS Trần Đức Anh Sơn cùng các cộng sự tập trung nghiên cứu những tấm bản đồ do phương Tây xuất bản trong các thế kỷ XVI - XIX, có vẽ hoặc ghi chú các quần đảo Paracel, Pracel... (Hoàng Sa) và Spartly (Trường Sa) thuộc về chủ quyền của Việt Nam tại một số thư viện ở Mỹ đang lưu giữ. Viện NCPT ĐN liên lạc nhờ anh Thắng tìm, sao chụp các bản đồ này gửi về. Như một duyên kỳ ngộ, lúc này Trần Thắng đã tiếp xúc với những tấm bản đồ liên quan đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự kiện tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do nhà Thanh (Trung Hoa) ấn hành năm 1904, với chi tiết điểm cực nam của lãnh thổ Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam, không hề có Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa), được TS Mai Hồng (Viện Nghiên cứu Hán - Nôm) công bố, đã tạo sự thu hút đặc biệt trong dư luận trong và ngoài nước, đồng thời càng thúc giục quyết tâm của Trần Thắng tìm kiếm những tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền của đất nước đang được các nhà sưu tầm bản đồ cổ ở khắp nơi trên thế giới lưu giữ. Từ các thông tin trên mạng Internet, Trần Thắng tìm cách liên lạc, tiếp cận để xem tận mắt hoặc có được hình ảnh chi tiết của các bản đồ này.
TS Trần Đức Anh Sơn kể: "Đến tháng 8.2012, Trần Thắng đã mua được 80 bản đồ riêng lẻ được in ấn tại Anh, Đức, Australia, Canada, Mỹ và Hồng Kông trong khoảng thời gian 1626 - 1980, bằng tiề.n riêng và mượn bạn bè. Trần Thắng tâm sự: "Mình tranh thủ mua ngay, kẻo người ngoài biết mà mua thì quá uổng".
Trên trang web của Viện IVCE tại Mỹ, Trần Thắng đã mở mục "Lãnh thổ của Trung Quốc trên bản đồ thế giới". Trong đó, anh lần lượt giới thiệu toàn bộ số bản đồ anh đã sưu tầm và hiện đang lưu giữ. Anh viết lời giới thiệu: "...Tôi muốn chia sẻ với các bạn về bộ sưu tập 80 tấm bản đồ từ năm 1626 đến 1980 được xuất bản tại Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Scotland, Ấn Độ... Trong đó, 70 tấm biểu thị biên giới phía nam Trung Quốc là Hải Nam và 10 tấm chỉ rõ, Hoàng Sa thuộc về Việt Nam...".
Một chi tiết thú vị: Trần Thắng quê Quảng Ngãi, là cháu ngoại của nhà thơ Tế Hanh. Hiện nay, anh đang sinh sống tại Connecticut - Mỹ. Trong những ngày này, Thắng đang tích cực đặt mua cuốn atlas Postal de Chine - Trung Hoa bưu chính dư đồ - Postal Atlas of China, bản in năm 1919. Đây là cuốn sách được in rất ít, có giá trị sử liệu cao.
Anh cho biết vào tháng 11 sắp tới, khả năng toàn bộ số bản đồ mà anh đã mua được, kết hợp với nguồn bản đồ của các nhà sưu tầm, nghiên cứu trong nước, sẽ tổ chức một cuộc triển lãm với chủ đề bản đồ cổ khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại nhiều địa phương trong cả nước.
Theo Dantri
Chính phủ công nhận 30 bảo vật quốc gia Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định công nhận bảo vật quốc gia (đợt 1) cho 30 hiện vật, nhóm hiện vật. 30 hiện vật, nhóm hiện vật vừa được công nhận bảo vật quốc gia gồm: 1. Trống đồng Ngọc Lũ (Văn hóa Đông Sơn, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia). 2. Trống đồng Hoàng Hạ (Văn hóa...