Canxi – thiếu, thừa đều hại
Canxi có 99% ở xương và răng giúp cho sự hình thành phát triển duy trì hoạt động hai cơ quan này. Nó chỉ hiện diện 1% trong máu, mô mềm nhưng lại có ý nghĩa quan trọng khác…
Sữa là nguồn cung cấp canxi dồi dào. Ảnh: minh họa – Internet
Nhu cầu và tác hại do thiếu canxi
Với thai nhi, trẻ sơ sinh:
Mỗi ngày thai cần ở thời kỳ đầu 350mg, giữa 150mg, cuối 150 – 450mg canxi. Mỗi ngày người lớn cần 800mg (theo WHO). Song nhiều nghiên cứu cho biết, hầu hết đều đạt thấp hơn: ở Mỹ, nữ da trắng 640 mg, nữ da đen 452mg; ở Trung Quốc chung cho nam nữ thành phố lớn 600mg, nông thôn 378mg; ở Việt Nam khoảng 400mg canxi.
Mỗi ngày bà mẹ mang thai cần 1.000 – 1.200mg. Khi canxi – máu thấp, theo “phản xạ tự nhiên”, tuyến cận giáp tăng tiết parathyroid để phân giải canxi dạng không tan của xương thành dạng tan, phóng thích vào máu, cung cấp cho thai song sự đáp ứng này chỉ nằm trong giới hạn. Kết cục, khi bà mẹ thiếu canxi, thai sẽ thiếu canxi, dẫn đến: chứng còi xương, dị dạng xương bẩm sinh; chứng hạ canxi – máu ngay khi sinh ra với biểu hiện co rút, co giật các cơ, thậm chí nín thở, ngừng hô hấp; chứng khò khè bẩm sinh (do các cơ liên quan hô hấp không làm tốt chức năng).
Ở trẻ còn rất nhỏ:
Video đang HOT
Bà mẹ cung cấp hoàn toàn (trước khi ăn dặm) hay một phần lớn (trước lúc bỏ bú) cho trẻ. Nếu bà mẹ thiếu, trẻ cũng sẽ thiếu canxi, dẫn đến chứng hạ canxi – máu nhẹ (dễ bị giật mình, ngủ không yên, quấy khóc) hay hạ canxi máu nặng (co giật). Các biểu hiện này xuất hiện vài ba ngày, vài ba tuần hay một tháng sau sinh, ngày càng rõ.
Ở trẻ tuổi nhỏ, tuổi trưởng thành:
Lúc này canxi cho trẻ do chế độ ăn quyết định.
Thiếu canxi sẽ khó hình thành, phát triển, duy trì hoạt động xương răng, nhất là chiều dài xương, dẫn đến có chiều cao khiêm tốn (so với trẻ cùng trang lứa trong cùng dân tộc, hệ di truyền). Thiếu canxi còn làm giảm sự sự lắng đọng cục bộ, khô chất gian bào ở đầu xương, gây ra cơn đau tăng trưởng ở bắp chuối hay một bên hoặc cả hai bên khớp gối nhưng không phải là viêm khớp.
Canxi tham gia vào các hoạt động của các enzym chuyển hóa protid, lipid, glucid; nếu thiếu, các quá trình này bị trở ngại, ảnh hưởng đến dinh dưỡng, làm trẻ chậm phát triển về thể chất. Canxi tham gia vào tế bào phóng thích acetylcholine, norephenephrin, tham gia vào hoạt động vùng dưới đồi, tuyến yên; thúc đẩy việc phòng thích hormon cortical, nhằm đảm bảo sự dẫn truyền thông tin giữa các tế bào thần kinh với nhau và giữa tế thần kinh với các tế bào khác; nếu thiếu thì quá trình học nhớ, tư duy bị sút kém, trẻ chậm phát triển tinh thần, trí tuệ.
Một số bệnh khi thiếu canxi tuổi trưởng thành sẽ không bộc lộ, nhưng tạo tiền đề cho sự bộc lộ ấy vào tuổi trung niên, tuổi già: như bệnh loãng xương, chứng lẩn thẩn tuổi già, bệnh cao huyết áp.
Bổ sung canxi như thế nào?
Sự hấp thu canxi:
Cơ thể trẻ chỉ hấp thu khoảng 50% lượng canxi từ thức ăn. Canxi dạng hòa tan hấp thu dễ, dạng không hào tan không hấp thu được. Khi sự phân tiết acid dạ dày kém (trẻ quá nhỏ tuổi) thì việc chuyển sang dạng canxi hòa tan giảm, sự hấp thu canxi giảm theo; song nếu thức ăn có thêm acid (dấm, vitamin C) hay có thêm chất lysine, tryptophan, arginn, histidin, sự chuyển thành dạng canxi tan tăng lên, sự hấp thu canxi tăng theo. Khi có các bệnh đường ruột (trẻ tiêu chảy dai dẳng, táo bón…), sự hấp thu canxi cũng kém đi.
Khi canxi nhiều hơn phosphor, canxi dễ hấp thu, nhưng khi phospho nhiều hơn thì canxi khó hấp thu. Tỷ lệ canxi/phosphor(Ca/P) bằng 1/1 thuận lợi cho hấp thu canxi từ 1 tuổi đến cuối đời, nhưng tỷ lệ bằng 2/1 sẽ thích hợp cho trẻ sơ sinh đến 2 tháng và bằng 1,5/1 thích hợp cho trẻ từ 2 tuổi đến dưới 1 tuổi. Sữa người có tỷ lệ Ca/P khoảng1,31/1 nên việc hấp thu canxi chưa phải tối ưu nhưng tốt hơn sự hấp thu canxi ở các thức ăn và sữa khác rất nhiều.
Bổ sung canxi bằng thực phẩm:
Giá trị canxi của thực phẩm không chỉ ở hàm lượng mà còn ở các yếu tố hấp thu trên. Canxi ở thực vật (vì có một số ở dạng không hòa tan như oxalat) nên không tốt bằng ở động vật; động vật trên cạn có hàm lượng canxi thấp nên không tốt bằng động vật ở dưới nước (cá tôm, cua, ếch), nhất là loại tôm cá biển. Cần ăn cân đối giữa thức ăn thực vật – động vật trên cạn, dưới nước. Nếu chỉ ăn thực vật, có khi canxi tính lượng thô vẫn đủ, nhưng lượng hấp thu vào cơ thể vẫn thiếu.
Bổ sung canxi bằng thuốc:
Khi bị bệnh do thiếu canxi nặng (có biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm rõ) mới cần dùng thuốc. Nếu bệnh nặng như còi xương, cần dùng thuốc canxi kèm với vitamin D liều cao, nhưng nếu bệnh khỏi (hết biểu hiện trên lâm sàng, xét nghiệm), cần ngừng cả hai thuốc vì thừa cả hai thứ đều làm tăng canxi – máu, có hại. Khi bệnh cấp cứu như hạ canxi – máu nặng cần dùng dạng canxi tiêm và chỉ thực hiện tại bệnh viện.
Khi thiếu canxi mức vừa, có thể bổ sung thuốc chứa canxi, vitamin D loại có hàm lượng thấp (canxi 200mg – 500mg, vitamin D 200IU). Sau 3 tháng, kiểm tra lại, nếu đã đủ thì ngừng thuốc, khi nào thiếu bổ sung lại. Nếu cho trẻ ăn cả ngày không kể liều lượng và kéo dài sẽ thừa canxi, trẻ sinh ra mỏi mệt, chán ăn. Loại có hàm lượng canxi và vitamin D hoặc chỉ có vitamin D hàm lượng cao, tác dụng kéo dài chỉ dùng để chữa bệnh theo đơn, tuyệt đối không tự ý dùng để bổ sung canxi, vitamin D cho trẻ không có bệnh, vì sẽ tăng canxi – máu, gây độc.
Theo BĐVN
Trị lõm ngực không khó
Lõm ngực bẩm sinh là biến dạng lồng ngực bẩm sinh do sự phát triển bất thường của một số xương sườn và xương ức làm cho lồng ngực bị lõm.
Một số quan điểm cho rằng đây là dị tật có khả năng di truyền trong cùng một gia đình.
Hiện tượng lõm xương ức kéo theo sự phát triển bất thường các sụn sườn lân cận, gây ra hiện tượng đau ngực tại các vị trí này. Qua nhiều năm, người ta nhận thấy một số bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh có bất thường sinh lý.
Lõm ngực nhiều làm bệnh nhân khó thở, hay bị mệt và suy dinh dưỡng. Một số bệnh nhân bị hồi hộp, đánh trống ngực hoặc khó thở khi hoạt động gắng sức. Nhiều bệnh nhân đến khám với lồng ngực bị lép và lõm nhiều, gầy trơ xương và có cả những trường hợp suy giảm trí thông minh do bị suy dinh dưỡng. Bệnh nhân thường có triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực do tim bị xoay và bị chèn ép. Những triệu chứng này sẽ mất đi sau phẫu thuật.
Dị tật này có thể phát hiện ngay sau sinh hoặc ở tuổi dậy thì nếu thầy thuốc cũng như gia đình để ý. Mức độ lõm ngực có thể giữ nguyên như sau khi sinh đến lúc trưởng thành và không tự khỏi. Đa số các trường hợp diễn tiến nặng dần và nặng lên rất nhanh trong giai đoạn dậy thì.
Từ lâu, người ta đã biết đến lõm ngực bẩm sinh nhưng rất lúng túng trong điều trị. Một thời gian khá dài, bệnh nhân được thầy thuốc khuyên nên tập vật lý trị liệu, chế độ ăn giàu chất canxi nhưng đều thất bại. Một số thầy thuốc khác đề ra phương pháp điều trị lõm ngực bẩm sinh bằng phẫu thuật cắt sụn sườn và cắt xương ức, sau đó cố định lại bằng chỉ thép nhưng phần lớn các phẫu thuật này đều phức tạp và nặng nề, khả năng tàn phá lồng ngực lớn mà hiệu quả không cao. Hiện nay, trên thế giới, những phẫu thuật này không được phép thực hiện nữa vì di chứng của nó cho bệnh nhân là rất nặng nề do gây bất sản lồng ngực đưa đến hiện tượng teo ngực, cản trở và gây suy hô hấp nặng.
Từ khi bác sĩ Nuss, phẫu thuật viên nhi khoa tại Bệnh viện King Daughter Children's Hospital ở Florida (Mỹ), tiên phong thực hiện phẫu thuật nâng ngực dựa trên nguyên tắc sử dụng những thanh đỡ bằng kim loại (từ năm 1986 đến 1997, ông báo cáo đã thực hiện trên 42 bệnh nhân), nhiều bệnh viện ở Mỹ và châu Âu đã thực hiện phẫu thuật này.
Ở Việt Nam, phẫu thuật nâng ngực dựa trên nguyên tắc sử dụng những thanh đỡ bằng kim loại đã được các chuyên gia Hàn Quốc chuyển giao cho một số bệnh viện lớn tại TPHCM (như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược, Bệnh viện Quốc tế Minh Anh...). Tuy mới áp dụng từ năm 2008 đến nay nhưng đã có hàng ngàn bệnh nhân được điều trị với kết quả tốt.
Theo NLĐ
Trượt đốt sống - Bệnh không thể xem thường Trượt đốt sống là bệnh thường gặp, xảy ra chủ yếu ở vùng cột sống thắt lưng. Bệnh có thể do bẩm sinh, thoái hoá, chấn thương, bệnh lý gây ra, trong đó hay gặp nhất là trượt đốt sống do hở eo và do thoái hóa. Vì sao bị trượt đốt sống? Một người có thể bị trượt đốt sống do một...