Cảnh báo tình trạng nhiễm sán chó, mèo
Bệnh sán chó mèo là do ký sinh trùng gây ra do tiếp xúc với chó, mèo chưa được tẩy giun hoặc ăn phải thức ăn có ấu trùng giun, sán nhưng không được nấu chín hoặc rửa kỹ.
Một bệnh nhân mắc bệnh sán chó mèo.
Mới đây, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lào Cai tiếp nhận bệnh nhân nữ 49 tuổi, trú tại Lào Cai vào viện với triệu chứng đau vùng thượng vị, đau thành cơn, không nôn, không sốt.
Bệnh nhân được chuyển đến Khoa Nội tổng hợp, qua thăm khám và làm các xét nghiệm cận lâm sàng. bệnh nhân cho kết quả: nhu mô gan hạ phân thùy V có đám giảm nhẹ tỷ trọng không đồng nhất, kích thước16×20mm, ngấm thuốc khá mạnh vùng trung tâm, xung quanh giảm tỷ trọng, ngấm thuốc ít.
Nhận thấy đây là một ca bệnh hiếm gặp trong cộng đồng và chẩn đoán xác định đòi hỏi sự phối hợp của hình ảnh, huyết thanh và miễn dịch để xác định chính xác bệnh các bác sĩ trong khoa đã hội chẩn và thống nhất chẩn đoán, chuyển bệnh nhân lên Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương.
Tại đây, sau khi thăm khám và làm thêm các xét nghiệm, bệnh nhân được chẩn đoán là: Nhiễm sán chó. Bệnh nhân đã được đưa ra phác đồ điều trị và hẹn tái khám sau khi hết thuốc.
Theo các bác sĩ, khi chó bị nhiễm sán, sau khi ký sinh và trứng sán sẽ được phát triển rồi phóng thích ra môi trường thông qua quá trình phóng uế của chó. Ngoài ra, hậu môn của chó là nơi chứa rất nhiều trứng sán.
Bệnh sán chó thường xảy ra nhiều ở trẻ em vì đây là đối tượng hay ngậm tay hoặc dùng tay để bốc thức ăn, đồ vật đưa vào miệng.
Dù nguyên nhân bệnh sán chó xuất phát từ các loại vật nuôi thông thường như chó, mèo nhưng không phải tất cả ca mắc bệnh sán chó đều do chúng gây ra. Nếu chó, mèo được tẩy giun định kỳ, đúng cách và được người nuôi kiểm soát tốt vấn đề giun, sán ở chúng thì bạn không cần phải lo ngại đến căn bệnh này khi gần gũi với thú cưng.
Hơn nữa, bệnh sán chó không phải là một bệnh phổ biến do ký sinh trùng gây ra vì ngày nay, tập quán sinh hoạt, thói quen vệ sinh và cách thức nuôi chó, mèo cũng đã tiến bộ rất nhiều. Ấu trùng chỉ có nhiều cơ hội ký sinh trên cơ thể chó, mèo khi chúng không được tắm rửa và thường xuyên tiếp xúc với nguồn đất bẩn.
Bộ Y tế hướng dẫn sàng lọc và điều trị dự phòng tiền sản giật
Tiền sản giật - sản giật (TSG-SG) là rối loạn chức năng đa cơ quan liên quan đến thai nghén, chiếm tỷ lệ khoảng 2 -10% trong toàn bô thai kỳ.
Video đang HOT
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn vừa ký Quyết định số 1911/QĐ-BYT về việc ban hành tài liệu Hướng dẫn Sàng lọc và điều trị dự phòng tiền sản giật trước bối cảnh dù đã có những nỗ lực trong quản lý giai đoạn tiền sản nhưng tiền sản giật (TSG) vẫn là môt trong những gánh nặng bệnh tật trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Tiền sản giật - sản giật (TSG-SG) là rối loạn chức năng đa cơ quan liên quan đến thai nghén, chiếm tỷ lệ khoảng 2 -10% trong toàn bô thai kỳ.
Mặc dù đã có những nỗ lực trong quản lý giai đoạn tiền sản nhưng TSG-SG vẫn là môt trong những gánh nặng bệnh tật trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Có thể hạn chế các ảnh hưởng của TSG-SG thông qua dự báo và điều trị dự phòng bệnh, tối ưu là dự phòng xuất hiện bệnh, ngăn chặn tiến triển nặng và ngăn chặn các biến chứng.
Quyết định số 1911/QĐ-BYT về việc ban hành tài liệu Hướng dẫn Sàng lọc và điều trị dự phòng tiền sản giật.
Trong 2 thập kỷ qua tỷ lệ TSG đã tăng khoảng 25%, đặc biệt là nhóm TSG sớm.
Tại Châu Á, môt thống kê từ 2001 -2014 cho thấy TSG sớm tăng từ 0,5% lên 0,8% trong toàn bô thai kỳ.
Tại Việt Nam, tỷ lệ TSG trước 34 tuần là 0,43%, tỷlệ TSG từ 34 -37 tuần là 0,70% và tỷ lệ TSG sau 37 tuần là 1,68% so với toàn bô thai kỳ.
Loạt nghiên cứu từ năm 2012 đến 2016 tại Huế cho thấy tỷ lệ TSG khoảng 2,8 -5,5%. Tại Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu về bệnh lý TSG-SG trong những năm gần đây đã tập trung vào lĩnh vực dự báo xuất hiện bệnh, dự báo tiến triển bệnh và kết quả thai kỳ cũng như điều trị dự phòng TSG.
Tiền sản giật dẫn đến nguy cơ tử vong cao ở phụ nữ mang thai.
Tiền sản giật là bệnh lý có nhiều biến chứng đối với cả mẹ và thai nhi, là môt trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ, tử vong chu sinh trên toàn thế giới.
Tỷ lệ tử vong mẹ liên quan đến tăng huyết áp (HA) trong thai kỳ nói chung và TSG chiếm khoảng 14%. Tỷ lệ tử vong mẹ liên quan đến tăng HA trong thai kỳ khoảng 12,9 -16,1%.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của TSG-SG còn kéo dài sau sinh, liên quan đến các lần sinh tiếp theo và là yếu tố nguy cơ của các bệnh lý tim mạch về sau.
Theo Bộ Y tế, triêu chứng của TSG-SG bao gồm: Tăng huyết áp; Protein niêu; Các triêu chứng lâm sàng khác liên quan đến rối loạn chức năng nhiều cơ quan do ảnh hưởng của bệnh lý TSG gồm: rối loạn thị giác và tri giác, đau đầu không đáp ứng với các thuốc giảm đau, đau vùng thương vị - hạ sườn phải, căng bao Glisson, tan máu, phù phổi... (triệu chứng phù ít có giá trị và không còn là tiêu chuân chân đoán TSG);
Triêu chứng cận lâm sàng như giảm tiểu cầu, các thay đổi liên quan đến thận bao gồm giảm mức lọc cầu thận, tăng nồng đô creatinin, acid uric huyết thanh, hoại tử và xuất huyết quanh khoảng cửa ngoại vi phân thùy gan gây tăng các men gan (SGOT, SGPT, xét nghiệm nước tiểu có protein niệu và hồng cầu niệu, soi đáy mắt biểu hiện co các đông mạch võng mạc ở môt điểm hay môt vùnghoặc phù võng mạc.
Bộ Y tế hướng dẫn nguyên tắc sàng lọc TSG-SG:
Tích hơp sàng lọc TSG thực hiện thường quy vào quy trình quản lý thai, khám thai cho tất cả mọi thai phụ.
-Thực hiện sàng lọc TSG theo mô hình hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: tại thời điểm 11 -13 6 tuần tuổi thai, mục tiêu tập trung vào sàng lọc TSG sớm và can thiệp dự phòng,
Giai đoạn 2: vào 3 tháng giữa và/hoặc 3 tháng cuối thai kỳ, sàng lọc TSG đươc tiếp tục thực hiện cho cả TSG sớm và TSG muôn, nhằm mục đích quản lý phù hơp các trường hơp nguy cơ cao, xác định thời điểm, địa điểm và cách thức kết thúc thai kỳ hơp lý cho từng trường hơp.
Có thể hạn chế các ảnh hưởng của TSG-SG thông qua dự báo và điều trị dự phòng bệnh.
Điều trị dự phòng tiền sản giật
*Đối với tuyến y tế cơ sở: Xác định nhóm nguy cơ cao cần điều trị dự phòng TSG dựa vào các đặc điểm mẹ, các yếu tố tiền sử, bệnh sử, yếu tố gia đình liên quan đến TSG:
-Điều trị dự phòng nếu có môt trong những yếu tố nguy cơ sau: Tiền sử TSG (đặc biệt khi có biến chứng nặng), đa thai, tăng HA mạn, đái tháo đường typ 1 hoặc 2, bệnh thận, bệnh tự miễn (lupus ban đỏ hệ thống, hôi chứng kháng phospholipid...)
-Cân nhắc điều trị dự phòng TSG nếu có từ 2 yếu tố sau: thai con so, béo phì(BMI>30kg/m2), tiền sử gia đình TSG (mẹ hoặc chị,em), mẹ trên 35 tuổi, đặc điểm xã hôi (điều kiện kinh tế xã hôi thấp), tiền sử thai nhẹ cân, kết quả thai kỳ bất lơi, khoảng cách giữa 2 lần mang thai trên 10 năm.
-Đối với nhóm không có yếu tố nguy cơ cao, quản lý thai nghén thường quy
*Đối với tuyến tỉnh và trung ương :
- Thời điểm 3 tháng đầu thai kỳ
Các trung tâm có thể triển khai thường quy mô hình sàng lọc TSG: Xác định nhóm nguy cơ cao TSG dựa vào mô hình phối hơp các yếu tố nguy cơ mẹ, HA đông mạch trung bình, siêu âm doppler chỉ số xung đông mạch tử cung và xét nghiệm sinh hoá PlGF hoặc PAPP-A (sử dụng PAPP-A nếu không thể xét nghiệm PlGF). Cần điều trị dự phòng khi nguy cơ xác định bằng mô hình phối hơp 1/100.
Các trung tâm chưa triển khai thường quy mô hình sàng lọc TSG: khuyến cáo ưu tiên lựa chọn nhóm nguy bằng mô hình phối hơp hơn so với chỉ dựa vào các yếu tố nguy cơ mẹ. Có thể áp dụng mô hình phối hơp yếu tố nguy cơ mẹ và HA đông mạch trung bình, sau đó, những đối tương nguy cơ cao sẽ phối hơp thêm siêu âm Doppler chỉ số xung đông mạch tử cung và xét nghiệm sinh hoá như trong mô hình tối ưu đươc khuyến cáo để xác định nhóm cần can thiệp và chỉ định điều trị dự phòng tại tuyến tỉnh trở lên.
- Thời điểm 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ:
Tiếp tục sàng lọc TSG bằng mô hình dự báo phối hơp yếu tố nguy cơ mẹ, HA đông mạch trung bình, chỉ số xung đông mạch tử cung và PlGF, sFlt-1.
Không có chỉ định điều trị dự phòng.
Hiểu đúng về vi khuẩn H.P để phòng ngừa biến chứng Vi khuẩn Helicobacter pylori (H.P) sống trong lớp nhầy trên bề mặt niêm mạc dạ dày ( ảnh ), là nguyên nhân chính gây ra viêm, loét dạ dày - tá tràng. Đây cũng là tác nhân gây ung thư dạ dày - loại ung thư nguy hiểm thường gặp ở nước ta. SHUTTERSTOCK PGS-TS Bùi Hữu Hoàng, Trưởng khoa Tiêu hóa -...