Căng thẳng Sài Gòn – Washington
Bỏ qua thái độ của chính quyền Thiệu, ngày 8/10/1972 phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa trao cho Hoa Kỳ bản đề nghị được trình bày dưới hình thức một hiệp định sẵn sàng để ký kết, có tên là “Hiệp định chấm dứt chiến tranh vãn hồi hòa bình tại Việt Nam”.
Từ ngày 8 đến 11/10/1972, hai phái đoàn Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa thảo luận kỹ lưỡng về các điều khoản của hiệp định. Đến ngày 17/10 tại Paris, hai bên duyệt lại lần cuối và đi đến thống nhất lịch trình ký kết hiệp định.
Sài Gòn công kích Washington
Việc chỉ được biết thông tin về bản dự thảo và thời gian biểu cho việc ký kết hiệp định thông qua dư luận báo chí khiến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra “bất phục” với Hoa Kỳ. Và “lo sợ” ký kết hiệp định với điều khoản quy định về cuộc tổng tuyển cử trong thời điểm phần đông dân chúng miền Nam Việt Nam đang hướng lòng theo cách mạng, sẽ đồng nghĩa với việc bị mất “chiếc ghế” tổng thống.
Do đó, trong thời gian từ ngày 26/10 đến 7/11/1972, ông Thiệu cấp tốc cử ba đại sứ đi đến 12 quốc gia ở châu Á nhằm rêu rao lập trường đối với bản dự thảo hiệp định, gián tiếp công kích Hoa Kỳ trước dư luận. Đồng thời ông ta liên tục gửi công hàm cho Hoa Kỳ, nói rõ rằng: “Những vấn đề cần phải giải quyết trong dự thảo hiệp định là những vấn đề căn bản chứ không phải là những vấn đề chi tiết hay ngôn ngữ như ông Kissinger đã tuyên bố” và đòi hỏi “Hoa Kỳ cho biết rõ về những gì Hoa Kỳ hứa hẹn với Bắc Việt theo như họ tiết lộ”.
Trước phản ứng quá mạnh của chính quyền Sài Gòn, ngày 29/10/1972 tổng thống Nixon gửi thư cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhằm làm giảm bớt sự công kích nhưng không có hiệu quả, trong khi dư luận ngày càng tỏ ra phản ứng mạnh trước sự trì hoãn của Nixon. Hãng UPI cho rằng Việt Nam đã đưa quả bóng sang sân của Hoa Kỳ.
Tổng thống Thiệu (trái) và tổng thống Nixon vào thời điểm ấy đã không còn “mặn nồng” dù cùng nhìn về một hướng – Ảnh: Bettmann/Corbis
Hãng tin Pháp AFP nhận xét: Nixon đã bị dồn vào chân tường và buộc phải lựa chọn, hoặc ký sớm hiệp định, bỏ rơi Thiệu, hoặc tiếp tục chiến tranh. Còn các nhân vật đối lập trong Quốc hội Hoa Kỳ đòi Nixon phải có trách nhiệm ký hiệp định sớm, không thể để Thiệu muốn làm gì thì làm và họ cho rằng Nguyễn Văn Thiệu đang thách thức lòng tự trọng của nhân dân Hoa Kỳ. Vì vậy, ngày 2/11/1972, để xoa dịu dư luận, Nixon tuyên bố trên truyền hình bản dự thảo còn có những phần “mập mờ” “cần làm rõ trước khi ký kết bản hiệp định cuối cùng”. Đồng thời để tỏ chứng minh Hoa Kỳ không “bỏ rơi” chính quyền Sài Gòn và việc ký kết hiệp định hoàn toàn nằm trong kế hoạch, Nixon ra lệnh cho máy bay chiến lược B-52 ném bom phía Bắc khu phi quân sự.
Lá thư răn đe của Nixon
Ngày 7/11/1972, vượt qua các chướng ngại, Richard Nixon tái đắc cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ 38. Ngay hôm sau, ngày 8/11/1972, Nixon gửi bức thư đầu tiên trong cương vị tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ răn đe Nguyễn Văn Thiệu và cũng để nói rõ kế hoạch của ông ta đối với việc ký kết Hiệp định Paris. Nội dung bức thư như sau:
“Hôm nay, sau cuộc tái đắc cử của tôi, tôi xin mở lại cuộc đối thoại giữa chúng ta về dự thảo hiệp định để chấm dứt chiến tranh.
Trước hết, tôi phải bày tỏ sự thất vọng sâu xa của tôi về cái mà tôi xem là một sự xa cách dần dần trong mối bang giao giữa hai quốc gia chúng ta, một khuynh hướng mà chỉ có hại cho những mục tiêu chung của chúng ta và có lợi cho kẻ thù. Việc tổng thống (Nguyễn Văn Thiệu – BT) liên tục bóp méo và công kích hiệp định là không đúng (unfair) và biểu lộ tinh thần chủ bại (self defeating). Những sự công kích này vẫn tiếp tục, mặc dù chúng tôi đã lưu ý nhiều lần, kể cả bức thư của tôi cho tổng thống vào ngày 29/10. Những sự công kích này đã làm cho tôi ngỡ ngàng và rất lúng túng.
Tuy nhiên, dù trong trường hợp nào, chúng tôi cũng quyết định đi tới trên căn bản của dự thảo hiệp định và những sự sửa đổi mà tướng Haig sẽ thảo luận với tổng thống và chúng tôi quyết định đạt được từ phía Bắc Việt.
Tôi xin tổng thống nói với đại tướng Haig liệu chúng tôi có thể xúc tiến một cách vững chắc trên căn bản này hay không. Chúng tôi đã đến chỗ mà chúng tôi cần phải biết một cách minh bạch liệu tổng thống có hợp tác với chúng tôi trong nỗ lực mà tướng Haig sẽ vạch ra những đường hướng chánh cho tổng thống, hay là chúng tôi phải nghĩ tới những phương thức hành động khác mà tôi tin rằng có thể sẽ tai hại cho quyền lợi hai quốc gia chúng ta”.
Video đang HOT
Ngày 10/11/1972, tướng Haig sang Sài Gòn, tận tay chuyển thư của Nixon, cùng bản chương trình cam kết sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ đối với chính quyền Sài Gòn nhằm có thể đánh thắng được quân giải phóng sau khi ký kết hiệp định. Nhưng sự đảm bảo của Hoa Kỳ chưa xoa dịu được sự “lo sợ” của Nguyễn Văn Thiệu, đáp lại những lời lẽ vỗ về của Nixon trong bức thư là những đường gạch đỏ với các dấu chấm hỏi của Nguyễn Văn Thiệu. Đặc biệt là đối với câu: “Tôi tin chắc tổng thống đã đạt được một thắng lợi to lớn mà hiệp định này sẽ phê chuẩn”, Nguyễn Văn Thiệu đã phê trực tiếp vào bức thư: “Cũng tùy có thắng thật hay là cứ nói là thắng”. Đồng thời ông ta tiếp tục từ chối bản dự thảo hiệp định.
Ngày 11/11/1972, Nguyễn Văn Thiệu gửi thư cho tổng thống Nixon.
Bút tích “biên tập” của tổng thống Thiệu trên lá thư của Nixon
Phản hồi của tổng thống Thiệu
Trong thư, ông Thiệu viết:
“Tôi đã nhận được thơ của tổng thống đề ngày 8/11 do tướng Haig chuyển cho tôi.
Trước hết tôi xin nhân cơ hội này chuyển tới tổng thống một lần nữa những lời ngợi khen nồng nhiệt và thành khẩn của tôi về sự thắng cử vẻ vang của tổng thống vào ngày 7/11 vừa qua.
Chúng tôi sẽ mãi mãi biết ơn sâu xa sự trợ giúp dồi dào mà Hoa Kỳ đã dành cho Việt Nam cộng hòa… và nhất là đối với sự đoàn kết anh dũng của Hoa Kỳ sát cánh với chúng tôi trong cuộc chiến đấu.
Tôi ý thức được rằng dân tộc Hoa Kỳ đã mệt mỏi vì cuộc chiến dai dẳng này…
Nếu có một giải pháp cho phép Bắc Việt duy trì lực lượng của họ tại Nam Việt Nam, cuộc chiến đấu và những hi sinh của chúng ta trong bao nhiêu năm sẽ mất hết lý do. Những đồng minh của chúng ta sẽ được coi như là kẻ gây hấn, quân đội Nam Việt Nam trong trường hợp này sẽ ở trong vị trí của những kẻ đánh mướn, chiến đấu cho một chính nghĩa sai lầm, một chính nghĩa mà chúng tôi không còn dám nói lên.
Trong bối cảnh này, tôi nghĩ thật là bất công khi tôi bị lên án đã bóp méo dự án thỏa hiệp khi tôi kêu gọi sự lưu ý đến khía cạnh quan trọng này của vấn đề…
Tôi không thể trình bày dài dòng về tất cả các điểm trong khuôn khổ thơ này. Vì vậy, tôi đã nhờ tướng Haig chuyển tới tổng thống những quan điểm của chánh phủ chúng tôi có nhiều chi tiết hơn”.
Ngày 12/11/1972, tướng Haig trở lại Washington báo cáo Nixon về chuyến công du Sài Gòn.
(Trích từ quyển Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, do NXB Chính Trị Quốc Gia phát hành tháng 12/2012)
Theo 24h
Sụp đổ "thần tượng B-52"
Cách đây khoảng 60 năm, nước Mỹ đã chế tạo và đưa vào biên chế loại máy bay ném bom chiến lược mang tên B-52. Mục đích sản xuất ra máy bay này để mang bom nguyên tử, nhằm răn đe các quốc gia trong chiến tranh lạnh.
Tuy vậy, do cán cân lực lượng trên thế giới vào những năm 60 có đối trọng về tiềm năng hạt nhân, cùng sự ra đời của nhiều loại tên lửa đạn đạo, nên B-52 còn được giao nhiệm vụ mang số lượng lớn bom thông thường sẵn sàng tham chiến tại chiến tranh cục bộ. Như thế, B-52 trở thành máy bay ném bom chiến lược ngay cả khi có xung đột và chiến tranh thông thường. Người Mỹ gọi B-52 là "Pháo đài bay" bởi lẽ nó có ưu thế lớn.
Theo các chuyên gia phân tích, ưu thế đó là bán kính hoạt động thực tế của B-52 là 6.400km, có thể từ rất xa bay tới; B-52 ném bom ở độ cao 9.000m đến 10.000m. Không loại máy bay nào ném bom được ở độ cao như B-52 vì nó có 8 động cơ, mang được nhiều bom, ném theo kiểu trải thảm diện tích rộng.
Các máy bay khác mang được ít bom, bay cao sẽ khó trúng. Trong khi B-52 chở gần 30 tấn bom, tên lửa, gồm khoảng 108 quả bom cỡ 227kg. Thời gian trút 30 tấn bom đó chỉ trong 10 -15 giây, tạo thành những loạt chấn động nổ có sức phá hoại cực mạnh, những bình địa trở thành vệt bom dài với các điểm nổ cách nhau từ 12 đến 20m.
3 chiếc B-52 có thể rải thảm trên mặt đất bề dài 3km, bề ngang 1km. John Foster Dallas, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Harry Truman từng nói: "Nằm dưới tầm B-52, đối phương chỉ còn cách cầu Chúa".
Ném bom ở độ cao như vậy thì đối phương không thể dùng pháo cao xạ 37mm và 57mm khống chế được. Nếu dùng pháo lớn của lực lượng phòng không Việt Nam loại 100mm thì chỉ bắn "đuối tầm", số lượng pháo 100mm này cũng không nhiều.
Máy bay B-52 và những vũ khí mà nó mang (Nguồn ảnh: Internet)
Vào ném bom Hà Nội, không quân chiến lược Mỹ đã tính đến máy bay MiG-21 và tên lửa CA-75, Mỹ gọi là SAM-2. Máy bay Mig-21 bị coi là loại cũ kỹ, sản xuất từ 1956, MiG-21 mang theo hai tên lửa Vympel K-13 AA tầm bắn ngắn. Nếu trước khi B-52 bay vào Hà Nội, các sân bay chủ yếu của miền Bắc bị bắn phá thì cơ hội xuất kích của MiG-21 rất thấp.
Nếu MiG-21 có bay lên được thì khó có thể vào gần B-52 trong phạm vi sát thương của tên lửa Vympel K-13 AA, vì xung quanh tốp B-52 có hàng chục máy bay F-4, F105 mang tên lửa hiện đại hộ tống. Đó là tên lửa không đối không AIM-9X Sidewinder có khả năng bắt - phóng đạn tiêu diệt mục tiêu với góc lệch trục rộng.
Để "loại" MiG -21 không thể cản trở B-52, thực tế đã diễn ra, ngay tối đầu tiên 18/12/1972, không quân Mỹ đã ném 22 trái bom rơi trúng đường băng sân bay Nội Bài và 5 trái rơi trúng đường lăn. Còn tại sân bay Yên Bái, 4 quả bom rơi trúng đường băng và 7 quả trúng đường lăn; sân bay Hòa Lạc có 8 quả trúng đường băng và 14 quả trúng đường lăn; sân bay Kiến An có 9 quả trúng đường băng và 15 quả trúng đường lăn.
Với cách chế áp sân bay quyết liệt như vậy, không quân Mỹ cho rằng, có thể yên tâm, không phải lo lắng về máy bay MiG của Bắc Việt.
Đối thủ còn lại, B-52 cần chú tâm đề phòng là hệ thống tên lửa đất đối không SAM-2. Đây là hệ thống tên lửa sử dụng đài ra-đa dẫn bắn vô tuyến điện, có kết cấu cồng kềnh, tính cơ động thấp. Dải tần số đài 1, đài 2 của SAM-2 thì quân đội Mỹ không lạ gì. Trong cuộc chiến tranh ở Trung Đông từ tháng 6/1967 tại thung lũng Bê-ca, bán đảo Xi-Nai, đồng minh của Mỹ là I-xra-en đã tấn công Ai-Cập. Bằng cách nào đó, Mỹ đã có trong tay "gan ruột" loại tên lửa SAM-2 này.
Do đó, trên mỗi máy bay B-52, không quân Mỹ đã "lo xa" lắp từ 9 đến 15 máy gây nhiễu, chế áp trên tất cả các dải tần số, đủ sức trùm phủ nhiễu lên toàn bộ các đài ra-đa mà Bắc Việt hiện có. Trên máy bay B-52 còn có 4 tên lửa "mồi bẫy", sẵn sàng phóng ra để hút đạn SAM-2 vào, gây nổ nhầm, giống như kiểu "liều mình cứu Chúa".
Chưa hết, các tốp máy bay F-4 hộ tống B-52 dày đặc còn mang theo máy gây nhiễu trong đội hình và ngoài đội hình. Trước khi B-52 vào, có 2 máy bay mang theo hàng chục bó nhiễu tiêu cực, chọn hướng gió thả các sợi kim loại bay lơ lửng trên bầu trời Hà Nội và phụ cận, nhằm làm "mờ mắt" tất cả các ra-đa của đối phương.
Chưa yên tâm với đối thủ đe dọa lớn nhất với B52 là tên lửa SAM-2, Bộ chỉ huy 57 của không quân Mỹ ra lệnh cho các liên đội không quân chiến thuật tập trung các loại máy bay cường kích F-4, F-105, F-111 săn lùng gắt gao các trận địa tên lửa để chế áp, dọn sạch đường bay cho B-52 đột nhập không phận Hà Nội. Phải nói đến loại tên lửa cao tốc dòng Shrikes (Sơ-rai), chuyên bắn phá khí tài vô tuyến điện tử.
"Pháo đài bay" B-52
Năm 1967, tập đoàn không quân số 7 của Mỹ ở Thái Bình Dương đã "tiêu tốn" 1.322 quả Shrikes ở Bắc Việt Nam. Đầu năm 1968, tên lửa tìm diệt ra-đa loại mới Standar-AGM-78 được Mỹ sử dụng ở Việt Nam. Nó bay nhanh hơn và xa hơn Shrikes, đắt gấp 10 lần (hai trăm nghìn USD/quả). Đây là những vũ khí diệt SAM-2 khá nguy hiểm.
Khi đài ra-đa dẫn bắn của SAM-2 phát sóng lên tìm B-52, các máy bay F-4, F-105 và F-111 lập tức phát hiện ra trận địa và phóng tên lửa cao tốc Shrikes và Standar-AGM-78, triệt hạ ngay các xe điều khiển, ra-đa và bệ phóng SAM-2. Đợt tấn công thứ 1 trong chiến dịch Linebacker II của B-52 vào đánh Hà Nội, từ đêm 18/12, không quân chiến thuật Mỹ đã tập kích 12 đòn tấn công vào trận địa tên lửa SAM-2, bằng bom và tên lửa cao tốc, gây tổn thất cho 7 phân đội (trung bình hai bệ phóng chịu 1 tên lửa Shrikes). Các tiểu đoàn đã phải di chuyển 6 lần để đánh trả.
Tại đợt 3, từ ngày 26/12, Mỹ đã tấn công vào các trận địa tên lửa 55 lần, 20 phân đội bị tổn thất, trong đó có 8 bệ phóng bị trúng tên lửa Shrikes, mất sức chiến đấu.
Thực tế cho thấy, đêm 18/12/1972, quân dân Hà Nội đã làm nên kỳ tích, bắn rơi 3 chiếc B-52. Trong cuộc hỏi cung vào sáng ngày hôm sau (19/12/1972), Thiếu tá Richard Edgar Johnson, số lính 561-54-4696, hoa tiêu ra-đa trên chiếc B-52G bị bắn rơi ở Phù Lỗ, Kim-Anh, Vĩnh Phúc, nay thuộc Hà Nội kể lại: "Tôi được cấp chỉ huy cho biết, tất cả các sân bay của MiG đều đã bị đánh hỏng, không quân Bắc Việt coi như bị loại khỏi vòng chiến.
Trước khi cất cánh tại căn cứ Anderson (Guam), sĩ quan tình báo trên không còn cho chúng tôi xem những bức không ảnh chụp các dàn tên lửa bị đánh phá tan hoang và vỗ vai tôi: "Yên trí đi, lực lượng phòng không tầm cao của Bắc Việt đã mất sức chiến đấu rồi. Cứ thoải mái cắt bom rồi quay về. Cứ coi đây chỉ là một cuộc dạo chơi".
Thế mà khi tiếp cận mục tiêu, tôi thấy từ dưới đất bay lên vô số đạn pháo phòng không các tầm, các hướng. Thỉnh thoảng, một quả tên lửa lại xẹt qua, làm tôi lạnh gáy. Vừa cắt bom xong, chưa kịp rời mắt khỏi kính đo toạ độ thì máy bay bỗng rung mạnh rồi chao đảo. Lửa khói bùng lên khắp khoang lái. Tiếng cơ trưởng gào lên trong ống nghe: "Trúng SAM rồi. Thoát ra!". Thế là chúng tôi chỉ còn biết nhảy dù...".
Qua trận Điện Biên Phủ trên không, phi công B-52 Mỹ thất bại cay đắng và nhận ra rằng, không thể ỷ lại vào vũ khí hiện đại và không thể chủ quan coi thường lực lượng Phòng không - Không quân Việt Nam.
Theo 24h
Kỳ tích "Điện Biên Phủ trên không" Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không là biểu tượng chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Sau khi viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sáng 29/12, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và MTTQ Việt Nam đã...