Cần thận trọng trong ứng xử với áp lực lạm phát
Mức lạm phát năm 2021 có thể cao hơn năm ngoái do một số nguyên nhân như: sự lên giá của bất động sản và chứng khoán chứng khoán làm tăng tài sản của các nhà đầu tư…
Mặc dù lạm phát cơ bản 4 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm trước đều là mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây, song nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần thận trọng trong ứng xử với áp lực lạm phát, nhất là trong bối cảnh khó khăn của Covid-19 hiện nay.
Rủi ro đang tích lũy
Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4, theo đó, CPI tháng 4/2021 tăng 2,7% và CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2021 tăng 0,89%, đây là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản 4 tháng tăng 0,74%.
Theo Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản bình quân 4 tháng đầu năm 2021 tăng 0,74% so với cùng kỳ năm 2020, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 0,89%) phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm và giá xăng, dầu tăng.
CPI tháng 4/2021 tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. (Ảnh minh họa)
Mặc dù lạm phát cơ bản tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm trước đều là mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây, nhưng theo PGS.TS. Phạm Thế Anh, chuyên gia kinh tế vĩ mô của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP), dù lạm phát chưa trở thành một mối đe dọa vĩ mô, nhưng rủi ro đang tiếp tục tích lũy.
“Đặc biệt, thị trường tài sản có nhiều dấu hiệu cho thấy đang trong tình trạng bong bóng, có thể mang lại rủi ro cho hệ thống tín dụng và hoạt động kinh tế”, PGS.TS. Phạm Thế Anh cảnh báo.
Video đang HOT
Chuyên gia của VERP phân tích, khi mức tăng giá trên các thị trường tài sản đủ lớn để tạo ra hiệu ứng của cải (wealth effect) thì mức tiêu dùng sẽ tăng đối với các mặt hàng không phải thiết yếu. Điều này dẫn tới sự lan tỏa của sự tăng giá từ thị trường tài sản sang thị trường tiêu dùng. Do đó, khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ hiện nay là làm sao để cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát.
Thừa nhận những áp lực lạm phát đang lớn hơn khi các nước duy trì tiền tệ nới lỏng và tung ra nhiều gói hỗ trợ khổng lồ và dường như giá cả mọi thứ đều tăng, song TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế tin tưởng, có ít nhất 2 yếu tố quan trọng khiến lạm phát sẽ không tăng quá mạnh, đó là sức cầu tiêu dùng chưa thể hồi phục mạnh, người dân có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn, trong khi vòng quay tiền chậm khi chưa đi vào tiêu dùng, sản xuất kinh doanh một cách quyết liệt và nhanh như trước đây.
“Vì thế, chúng tôi dự báo lạm phát năm nay chỉ ở mức 3,5-3,7%”, TS. Lực cho biết.
PGS. TS. Tô Trung Thành, Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế quốc dân
Đồng tình với quan điểm trên, PGS. TS. Tô Trung Thành, Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế quốc dân cũng dự báo, lạm phát năm 2021 sẽ đạt mục tiêu dưới 4%, do thu nhập và theo đó nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng còn khó khăn; trong khi đó, giá dầu và các hàng hóa cơ bản trên thế giới dự báo có mức tăng thấp; ổn định giá trị VND so với USD cũng giúp hạn chế được lạm phát nhập khẩu. Tuy nhiên, mức lạm phát năm nay có thể cao hơn năm 2020 do một số nguyên nhân như: sự lên giá của bất động sản và chứng khoán trong năm 2020 làm tăng tài sản của những nhà đầu tư, đồng thời các dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt hơn trong năm 2021, theo đó gia tăng nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn so với năm 2020, lan tỏa đến tăng giá cả tiêu dùng. Bên cạnh đó, lộ trình tăng giá các mặt hàng quản lý của Nhà nước có thể tiếp tục trong năm 2021 sau khi bị trì hoãn trong năm 2020.
“Thách thức lớn nhất đối với kinh tế Việt Nam năm 2021 là khả năng chống chịu của nền kinh tế sẽ như thế nào nếu làn sóng lây nhiễm dịch bệnh trở lại với sự xuất hiện của biến thể virus mới, mà sức chịu đựng của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào dư địa của chính sách hỗ trợ của Chính phủ”, PGS. TS. Tô Trung Thành lo ngại.
PGS. TS. Tô Trung Thành cũng nhấn mạnh về việc quy mô chi tiêu ngân sách có thể gia tăng nếu đại dịch tái bùng phát và kéo dài, trong khi thu ngân sách trở nên khó khăn hơn do nền kinh tế rơi vào vòng xoáy suy giảm. Theo đó, thâm hụt ngân sách và nợ công sẽ trở nên căng thẳng hơn, điều này khiến cho dư địa tác động của chính sách tài khóa bị thu hẹp lại. Trong khi đó, rủi ro kinh tế vĩ mô có thể gia tăng khi tiếp tục nới lỏng mạnh hơn chính sách tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế.
Cần thận trọng trước áp lực lạm phát
Theo VERP, trong mọi tình huống, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát là hết sức cần thiết để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Trong đó, hữu ích nhất trong bối cảnh hiện nay là các chính sách trọng cung, nhằm củng cố các yếu tố nền tảng của nền kinh tế. Cụ thể là các chính sách cải cách hành chính, nâng cao chất lượng bộ máy quản lý nhà nước, đặc biệt ở địa phương, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân.
Cùng quan điểm về việc ưu tiên ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát nhưng TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cần rất thận trọng trong ứng xử với áp lực lạm phát, nhất là trong bối cảnh khó khăn của Covid-19 hiện nay. Bài học năm 2011 cho thấy, nếu hành động quá mạnh để kiểm soát lạm phát sẽ khiến kinh tế không phục hồi được.
“Chúng ta cần khôn khéo trong ứng xử, tránh vội vã siết quá chặt vì lo ngại lạm phát. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng chấn chỉnh các cơn sốt hiện nay, trong đó có sốt đất, vì những cơn sốt như vậy gây ra sự bất ổn, không bền vững và có thể dẫn đến bong bóng”, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị./.
Bảo đảm nguồn cung các mặt hàng thiết yếu
Trong những năm qua, nhờ thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các Bộ, ngành trong công tác điều hành giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý nên giá cả hàng hóa thiết yếu không có sự biến động lớn.
Trong giai đoạn 2011-2015, Chính phủ đã nỗ lực triển khai nhiều biện pháp nhằm kiểm soát c hỉ số giá tiêu dùng . Năm 2011 là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhất trong 10 năm gần đây (tăng 18,13%) do tác động của các biện pháp nhằm cứu trợ kinh tế trong khủng hoảng tài chính cuối năm 2009 và năm 2010 dẫn tới lạm phát gia tăng tại nhiều nước và Việt Nam.
Sự tăng giá hàng hóa thế giới cùng với biến động của tỷ giá đã tác động tới giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu trong nước, đặc biệt là các mặt hàng phụ thuộc nhập khẩu như xăng dầu...
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tăng giá một số đầu vào quan trọng như: điện, than, xăng dầu, giá nước sạch tại một số địa phương, tiền lương... cũng góp phần làm tăng lạm phát trong năm 2011.
Tuy nhiên từ năm 2012 đến năm 2015, cùng với các giải pháp quyết liệt của Chính phủ, kinh tế trong nước dần phục hồi, lạm phát được kiểm soát tốt, chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm và đạt mức tăng thấp nhất 0,6% trong năm 2015, niềm tin của người dân vào sự ổn định kinh tế vĩ mô gia tăng, sức mua của thị trường được cải thiện.
Giai đoạn này nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm dồi dào, giá hàng hóa thấp, đồng thời giá các mặt hàng nhóm nhiên liệu năng lượng thế giới giảm làm giảm giá các mặt hàng xăng dầu, gas trong nước, kéo theo giá cước vận tải, chi phí giá thành sản xuất giảm...
Trong giai đoạn 2016-2020, Chỉ số giá hàng hóa được kiểm soát nhờ thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và tài khóa cũng như cơ chế phối hợp linh hoạt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Chỉ số CPI bình quân từng năm từ 2016 đến 2020 đều đạt được mục tiêu do Quốc hội đề ra. CPI bình quân giảm từ 4,74% năm 2016 xuống 3,54% năm 2018, tiếp tục giảm còn 2,79% trong năm 2019 và ở mức 3,23% trong năm 2020 (cách khá xa mức chỉ tiêu Quốc hội giao dưới 4%).
Trong giai đoạn này, mặt bằng giá hàng hóa chịu ảnh hưởng chủ yếu ở các nhóm hàng do nhà nước quản lý (phí dịch vụ y tế, giáo dục) được điều chỉnh tăng giá theo lộ trình. Nguồn cung hàng hóa các mặt hàng thiết yếu trên thị trường cơ bản được bảo đảm, giá cả tương đối ổn định (chỉ tăng cục bộ và trong thời gian ngắn, như dịp Tết Nguyên đán).
Riêng mặt hàng thịt lợn, trong năm 2017, giá giảm mạnh (có thời điểm giảm xuống dưới mức giá thành) do nguồn cung dư thừa nhưng sang nửa cuối năm 2019 đến năm 2020, giá lại có xu hướng tăng mạnh do nguồn cung thiếu hụt so với nhu cầu tiêu dùng sau khi chịu ảnh hưởng nặng nề của bệnh Dịch tả lợn Châu phi bùng phát từ đầu năm 2019 và công tác tái đàn còn gặp nhiều khó khăn.
Đến nay mặc dù giá bán vẫn ở mức cao so với các năm trước nhưng đã giảm mạnh so với cuối năm 2019 và nửa năm đầu 2020, nguồn cung cơ bản đáp ứng nhu cầu người dân. Một số mặt hàng nông sản khác (sản phẩm trồng trọt) được mùa, nguồn cung tăng nhưng được sự chủ động hỗ trợ tiêu thụ của các Bộ, ngành, địa phương nên giá không bị giảm sâu, bảo đảm lợi nhuận cho người trồng. Nhóm hàng năng lượng chịu ảnh hưởng lớn nhất từ các biến động giá trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, nguồn cung trong nước vẫn luôn được bảm đảo, giá các mặt hàng chính như xăng dầu được điều hành linh hoạt, theo sát diễn biến giá thế giới và có sự phối hợp trong điều hành giá các mặt hàng khác do Nhà nước quản lý, góp phần kiểm soát mức tăng CPI chung. Nguồn cung các mặt hàng nhóm vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng từ nguồn sản xuất trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, giá các mặt hàng này không có biến động lớn.
Công tác điều hành thị trường trong nước trong những năm vừa qua đã được thực hiện theo đúng các tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, theo dõi sát sao, hành động kịp thời để ứng phó với các biến động của thị trường. Nhờ đó, thị trường trong nước tiếp tục phát triển, đóng góp của thương mại trong nước vào GDP ngày càng tăng, thương mại trong nước trở thành một trong những trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế. Cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, giá cả hàng hóa ổn định, góp phần vào thành công trong thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội của Chính phủ.
Cách xuất khẩu, tiêu dùng đóng góp vào ổn định kinh tế vĩ mô Xuất khẩu tăng, tiêu dùng tăng đóng góp gì vào ổn định kinh tế vĩ mô? Khi xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu (xuất siêu) có nghĩa đồng USD trong nước không khan hiếm, người dân không có nhu cầu "ôm" đô la như một loại tài sản đảm bảo, thì đồng tiền Việt Nam ổn định. Tại phiên họp Chính phủ thường...