Cần rõ ràng để không ảnh hưởng đến an ninh thông tin quốc gia
Sau bài phỏng vấn ông Lê Quốc Vinh, chủ kênh truyền hình Fansipan TV, “Nhà mạng “khó thở” phải lấn sân sang truyền hình trả tiền”, Báo An ninh Thủ đô đã nhận được bài viết phản hồi của ông Đào Trung Thà
Tôi có mấy ý như sau với tư cách là người hoạt động trong lĩnh vực viễn thông lâu năm và từng giảng dạy về lĩnh vực này:
Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2015 sẽ có khoảng 30-40% số hộ gia đình có thể xem dịch vụ truyền hình trả tiền; đến năm 2020, phát triển khoảng 60-70% số hộ gia đình thu xem dịch vụ truyền hình trả tiền. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ truyền hình trả tiền tại Việt Nam dự báo sẽ đạt khoảng 25-30% trong giai đoạn 2012-2015 và khoảng 10-15% giai đoạn 2016-2020. Đến năm 2020, doanh thu truyền hình trả tiền đạt khoảng 800 triệu – 1 tỷ USD. Những con số ấn tượng này đã thực sự hấp dẫn các nhà khai thác viễn thông, những người có nhiều lợi thế khi “nhảy” vào cung cấp dịch vụ truyền hình cáp hay IPTV bởi họ có lợi thế cung cấp nhiều dịch vụ trên cùng một hạ tầng và có thể nhanh chóng phổ cập dịch vụ truyền hình và Internet băng rộng đến từng hộ gia đình.
Ông Đào Trung Thành – Phó Giám đốc Trung tâm tính cước VNPT thành phố Hồ Chí Minh
Video đang HOT
Tuy nhiên, hiện Việt Nam đang có 1 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình số mặt đất ( AVG), hơn 40 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình cáp (VCTV, SCTV…), 3 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình số vệ tinh (K , VTC, AVG), 4 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình IPTV (VNPT, FPT, VTC, Viettel) và 4 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình di động (MobiFone, Viettel, VinaPhone, VTC). Số lượng các đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ truyền hình cáp hơi nhiều vì theo quy hoạch của Bộ Thông tin và Truyền thông, để đảm bảo tính cạnh tranh và hiệu quả sử dụng nguồn lực, mỗi loại hình truyền hình trả tiền sẽ chỉ có 3 nhà cung cấp dịch vụ toàn quốc và 3-5 nhà cung cấp khu vực.
Bên cạnh đó, Quy hoạch sẽ quy định về doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền chiếm thị phần khống chế trên 1 loại hình dịch vụ (cáp, vệ tinh, IPTV) để có cơ chế kiểm soát thị trường thông qua kiểm soát giá thành, tránh tình trạng phá giá, bán dưới giá thành, gây đổ vỡ thị trường… vì vậy cần phải có các cơ chế, chính sách kiểm soát giá cước, khuyến mại của các đơn vị cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền hay kiểm soát giá thành của các doanh nghiệp viễn thông khi cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình nhằm kiểm soát việc bù chéo, phá giá dịch vụ truyền hình, cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình khác.
Đến thời điểm này, Viettel đã có 200.000 km cáp quang trên toàn quốc. Hiện độ phủ của cáp quang đến hộ gia đình trung bình trên toàn quốc là cách 350m. Điều này có nghĩa là cáp quang đã đến sát hộ gia đình. Do đó, chi phí đầu tư truyền hình cáp, IPTV sẽ giảm đáng kể, chất lượng cao và đặc biệt có thể đến vùng sâu, vùng xa, phổ cập đến các hộ gia đình Việt Nam. Dù chưa chính thức cung cấp dịch vụ, song những toan tính của Viettel cũng đang khiến không ít người kỳ vọng với sự góp mặt của các doanh nghiệp viễn thông sẽ đẩy thị trường truyền hình trả tiền bùng nổ tại Việt Nam. Hạ tầng kỹ thuật viễn thông, thông tin của quân đội khác với hạ tầng cung cấp thông tin phục vụ mục đích dân sinh và hơn ai hết Viettel phải hiểu rõ điều này để không lẫn lộn và làm ảnh hưởng đến an ninh thông tin quốc gia.
Có nên tách bạch đơn vị chuyên về hạ tầng truyền dẫn với đơn vị làm nội dung hay không? Đó tùy thuộc vào chiến lược kinh doanh của từng đơn vị kinh doanh, không có công thức chung. Mỗi mô hình đều có lợi điểm và nhược điểm. Nếu tách bạch đơn vị chuyên về hạ tầng truyền dẫn với đơn vị làm nội dung thì các đơn vị sẽ chuyên tâm vào lĩnh vực mà mình am hiểu nhưng không tận dụng được lợi thế cung cấp nhiều dịch vụ trên cùng một hạ tầng đã thiết lập trước. Nhưng nếu cho phép các doanh nghiệp chuyên về hạ tầng truyền dẫn làm nội dung thì cần phải có quy định rõ ràng nhằm kiểm soát việc bù chéo, phá giá dịch vụ truyền hình, cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình khác như nói phía trên.
Tác giả Đào Trung Thành, hiện là Phó Giám đốc Trung tâm tính cước VNPT thành phố Hồ Chí Minh. Ông có bằng Cao học/Master’s Degree Network Security Télecommunication tại Telecom & Management SudParis khóa 2005. Là giảng viên tại Học Viện Công nghệ Sài gòn từ 2001.
Theo ANTD
Bị cạnh tranh gay gắt, VTC có thể giảm giá thuê bao
Thị trường dịch vụ truyền hình số vệ tinh hiện đang chứng kiến 3 đối thủ cạnh tranh trực tiếp là VTC, K và AVG. Dịch vụ này đang có tốc độ phát triển khá nhanh. Đến nay, ước tính cả 3 doanh nghiệp kể trên đã tích lũy được khoảng 1 triệu thuê bao trong tổng số 3,5 triệu thuê bao truyền hình trên cả nước.
VTC Digital sẽ tăng cường chất lượng nội dung và có chính sách giá cả linh hoạt để thu hút thuê bao mới và giữ chân thuê bao hiện có. Ảnh: Internet
Ông Hoàng Lê Sơn - Chủ tịch kiêm Giám đốc VTC Digital cho biết, truyền hình vệ tinh có đặc điểm là khách hàng có thể dễ dàng chuyển đổi thuê bao từ nhà cung cấp này sang nhà cung cấp khác. Vì vậy, việc giữ chân khách hàng cũ quan trọng không kém việc phát triển thuê bao mới.
Theo VTC Digital, thuê bao rời mạng được hiểu là các thuê bao hết hạn nhưng không tiếp tục đóng cước để chuyển sang dùng dịch vụ truyền hình của các nhà cung cấp khác. Hoặc thuê bao ngưng đóng cước nhưng họ vẫn dùng đầu thu của VTC để xem các kênh miễn phí. Hiện VTC là nhà cung cấp dịch vụ truyền hình vệ tinh duy nhất cho phép khách hàng thu miễn phí hơn 30 chương trình quảng bá, bao gồm các kênh của VTC và một số đài truyền hình địa phương.
Đến hết năm 2012, VTC Digital đã có khoảng 280.000 thuê bao truyền hình số. Năm 2013, VTC Digital đặt kế hoạch sẽ phát triển mới khoảng 120.000 thuê bao truyền hình số (bao gồm cả truyền hình số vệ tinh và truyền hình số mặt đất). Tuy nhiên, với khả năng một số thuê bao sẽ rời mạng, nên đến cuối năm 2013 VTC Digital đặt kế hoạch sẽ chỉ tích lũy khoảng 350.000 thuê bao.
Theo ông Hoàng Lê Sơn, dịch vụ truyền hình đang phải đối mặt với khá nhiều thách thức. Bên cạnh thách thức đến từ suy thoái kinh tế khiến nhu cầu chi tiêu của người dân giảm sút, thì khách hàng đòi hỏi chất lượng nội dung ngày càng cao yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ phải có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng nội dung.
Trong thời gian qua, K , AVG với tiềm lực kinh tế mạnh đã chi khá nhiều tiền để làm thương hiệu và mua độc quyền nội dung các chương trình thể thao, phim truyện hấp dẫn. Đồng thời cả hai doanh nghiệp này đều bán và cung cấp thiết bị thu truyền hình số vệ tinh giá rẻ hơn để thu hút thuê bao.
"VTC sẽ không thể cạnh tranh bằng cách đổ tiền để mua bản quyền, đẩy giá bản quyền lên quá cao, mà chúng tôi cố gắng tạo sự thu hút người xem bằng lối đi riêng", ông Hoàng Lê Sơn nói.
Năm 2013, VTC Digital sẽ đổi mới kinh doanh bằng cách chuyển từ mô hình cố định sang di động. Trước đây, các dịch vụ của VTC Digital được phát triển bằng mô hình cố định: Giá thiết bị cố định, giá thuê bao cố định, phát triển dựa vào hệ thống đại lý là chủ yếu. Bước sang 2013, thay vì ăn lãi thiết bị và thu phí thuê bao, VTC Digital sẽ xây dựng chính sách giá cả linh hoạt, kịp thời thay đổi với những biến động của thị trường, đồng thời sẽ đa dạng hóa các kênh phân phối, mở rộng các kênh phân phối online.
Đặc biệt, VTC Digital tăng cường hợp tác với các đài truyền hình địa phương, các kênh giải trí của các công ty truyền thông để truyền dẫn nội dung lên hệ thống truyền hình số của VTC. Hiện đã có hơn 30 kênh truyền hình địa phương được phát sóng vệ tinh trên hệ thống của VTC. Đồng thời, VTC Digital cũng sẽ tập trung phát triển các nội dung phù hợp với văn hóa và thị hiếu của người dân từng vùng, miền nhằm thu hút và giữ chân khách hàng.
Theo Ictnews
Tích hợp chức năng thu truyền hình số vào TV Từ 1/4/2014, tất cả TV sản xuất và nhập khẩu để sử dụng tại Việt Nam phải tích hợp chức năng thu truyền hình số. Nội dung này nằm trong Đề án số hóa truyền hình mặt đất được thông qua tháng 12/2011. Ngày 27/12/2011, Thủ tướng đã ký quyết định 2451/QĐ-TTg phê duyệt Đề án truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt...