Căn bệnh bí ẩn trong lịch sử có thể cung cấp manh mối sự kết thúc dịch COVID-19
Với nhiều triệu chứng giống bệnh COVID-19, dịch Cúm Nga từng xảy ra trong lịch sử có thể cung cấp manh mối về sự kết thúc của đại dịch đang hoành hành hiện nay.
Sau khi mắc căn bệnh này, bệnh nhân bị mắc các triệu chứng về hô hấp và thần kinh, mất vị giác và khứu giác. Người bệnh bị mệt mỏi kéo dài và phải nỗ lực rất nhiều mới có thể tập trung tâm trí và sức lực để trở lại làm việc. Căn bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến người già và những người béo phì.
Virus corona có nhiều loại, có những loại cực kỳ nguy hiểm như SARS-CoV-2, cũng có những corona gây cảm lạnh thông thường. (Ảnh minh họa: Internet)
Thoạt nghe, các triệu chứng rất giống COVID-19, nhưng đây là dịch “Cúm Nga” – một đại dịch được ghi chép đầy đủ đầu tiên trên thế giới, xảy ra khi thuyết mầm bệnh hiện đại nổi lên và thuyết khí độc bị xóa bỏ, mở ra kỷ nguyên mới của khoa học y tế hiện đại.
Các tài liệu ghi chép cho biết, đại dịch cướp đi sinh mạng của một triệu người trên toàn thế giới. Các chuyên gia cho rằng, căn bệnh này nhiều khả năng đã kéo dài và có thể vẫn xuất hiện dưới một số hình thức nào đó ở thời điểm hiện nay.
Xảy ra trước đại dịch “Cúm Tây Ban Nha” năm 1918 – từng khiến 50 triệu người trên thế giới tử vong, cúm Nga không giống một bệnh cúm thông thường. Các triệu chứng có nó gần giống với triệu chứng bị nhiễm virus corona, trong đó SARS-CoV-2 là một chủng.
Virus corona thường gây nhiễm trùng đường hô hấp trên ở người từ mức độ nhẹ đến trung bình và là nguyên nhân gây ra một số bệnh cảm cúm thông thường. Nhưng nhiều căn bệnh đã trở thành đại dịch và đặc biệt nguy hiểm, trong đó có COVID-19, SARS (Hội chứng hô hấp cấp tính nặng) và MERS (hội chứng hô hấp vùng Trung Đông).
Tiến sĩ Harald Bruessow, biên tập viên của tạp chí Công nghệ sinh học Vi sinh vật cho biết: “Dịch tễ học và các triệu chứng lâm sàng của bệnh Cúm Nga giống với COVID-19 nhiều hơn so với các bệnh cúm khác”.
Khi nói về 2 căn bệnh này, ông Bruessow nhận xét: “Bạn bị nhiễm trùng đường hô hấp nhưng đồng thời xuất hiện các triệu chứng liên quan đến thần kinh. Ngoài ra còn một số triệu chứng giống triệu chứng mắc COVID-19 kéo dài cũng được quan sát thấy trong đại dịch Cúm Nga. Người bệnh mất khả năng lao động trong một thời gian dài. Tỷ lệ tự tử ngày càng gia tăng và nhiều người không có khả năng trở lại làm việc như trước kia”.
Khi không ai thực sự đoán định được quỹ đạo của đại dịch COVID-19, cũng như việc nó sẽ kết thúc hoặc phát triển như thế nào, còn các mô phỏng trên máy tính thường mang tính ngắn hạn và xu hướng thiếu chính xác, chuyên gia Bruessow đã nhìn về quá khứ.
Sau khi xem xét đại dịch nào có thể đóng vai trò là mô hình tốt nhất để dự đoán diễn biến của COVID-19, ông nhận thấy rằng, dịch Cúm Nga là sự lựa chọn phù hợp hơn cả. “Bệnh Cúm Nga thực sự là phù hợp nhất mà tôi có thể dựa vào khi tìm kiếm một đại dịch liên quan đến đường hô hấp quy mô tương đương với COVID-19 được ghi nhận đầy đủ về mặt y tế”, chuyên gia Bruessow nói.
Tiến sỹ Bruessow cho biết, căn bệnh được cho là bắt nguồn từ đàn gia súc ở Turkestan hoành hành tại đế chế Nga trước khi lây lan ra toàn thế giới. Mặc dù được coi là bệnh cúm ở thời điểm đó, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa biết rõ về nguyên nhân gây bệnh.
Manh mối về sự kết thúc của dịch COVID-19?
Một báo cáo dài 344 trang của các bác sỹ tại London năm 1891 cho biết, bệnh nhân mắc Cúm Nga bị “ho khan nặng” sốt, đau đầu ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng, đau nhãn cầu, mệt mỏi, yếu ớt và tinh thần suy sụp rất nhiều, “khóc, bồn chồn, mất ngủ và đôi khi mê sảng”.
Cũng giống như COVID-19, căn bệnh này không gây ảnh hưởng nhiều đến trẻ em. Nếu bị mắc, trẻ chỉ xuất hiện những triệu chứng nhẹ. Nhưng bệnh gây nguy cơ tử vong rất cao ở người cao tuổi và những người có bệnh lý nền như tim, lao phổi hoặc tiểu đường. Gần 10% số ca mắc bị các triệu chứng kéo dài, được các bác sỹ châu Âu thời đó mô tả là “tác động xấu lâu dài”.
Video đang HOT
Tương tự như COVID-19, các tài liệu ghi chép cho biết, bệnh nhân khả năng lây nhiễm cho người khác trước khi xuất hiện triệu chứng và đôi khi bị tái nhiễm.
Giống Covid-19, Cúm Nga gây tỷ lệ tử vong cao ở người cao tuổi. (Ảnh: AFP)
Dịch Cúm Nga được cho là xảy ra từ năm 1889 đến năm 1890, nhưng trên thực tế nó kéo dài đến năm 1894 và thậm chí lâu hơn, ước tính gần 1 thập kỷ, theo Thư viện Y học Quốc gia Mỹ (NLM) thuộc Viện Y tế quốc gia Mỹ.
Tuy vậy, dữ liệu y tế công cộng của Anh cho biết, nước này vẫn ghi nhận nhiều ca tử vong diễn ra liên tục từ năm 1899 đến 1900. Chưa rõ liệu những trường hợp tử vong này do làn sóng mới của dịch Cúm Nga hay do nguyên nhân nào khác. Nhưng những mô tả về triệu chứng bệnh trên tạp chí The Lancet và các tạp chí y khoa khác của Anh, là “rất giống nhau”.
“Tất cả điều này khiến “tôi nghĩ rằng chúng ta nên xem xét khả năng virus gây bệnh cúm Nga vẫn phát triển và ẩn nấp đâu đó, gây ra các ca tử vong tại Anh và nhiều nơi khác”, chuyên gia Bruessow lưu ý.
Một số người tin rằng, virus gây bệnh Cúm Nga vẫn tồn tại đến ngày nay với tên gọi OC43 – loại virus phổ biến thường gây bệnh ở đường hô hấp trên. Đa phần bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ, nhưng nhiều người có thể bị viêm phế quản, viêm tiểu phế quản và viêm phổi. Triệu chứng của nó có thể bị nhầm lẫn với triệu chứng COVID-19.
Tiến sĩ Arijit Chakravarty, Giám đốc điều hành Fractal Therapeutics, đồng thời là nhà nghiên cứu COVID-19 cho rằng, nếu giả thuyết này là đúng, thì bệnh cúm Nga có thể vẫn âm thầm lây lan và đôi khi gây tử vong. Một nghiên cứu năm 2021 được công bố trên tạp chí Nature cho biết, tỷ lệ tử vong ở người phải nhập viện do nhiễm OC43 là 9,1%, mặc dù nghiên cứu chỉ theo dõi 77 bệnh nhân tại một bệnh viện ở Hàn Quốc từ năm 2012 đến 2017.
Một tương lai như vậy có thể đang chờ đợi dịch bệnh Covid-19, chuyên gia Bruessow đánh giá. “Đây là điều mà các nhà virus học chuyên nghiên cứu về sự tiến hóa của virus dự đoán có thể xảy ra với virus SARS-CoV-2″, ông nói về khả năng COVID-19 tồn tại trong tương lai.
“Một số người cho rằng biến thể Omicron đang chiếm đa số hiện nay có thể đã đi theo hướng này vì nó ít ảnh hưởng đến phổi hơn và tấn công chủ yếu vào đường hô hấp trên”, chuyên gia Bruessow nói và hy vọng, Omicron sẽ là “biến thể cuối cùng” đánh dấu sự kết thúc giai đoạn cấp tính của dịch COVID-19.
Cách chữa ho dai dẳng sau nhiễm trùng đường hô hấp
Ho dai dẳng sau nhiễm trùng đường hô hấp như cảm lạnh thông thường, cúm hay thậm chí là COVID-19... rất phổ biến.
Những cơn ho này chủ yếu là ho khan thường kéo dài hơn ba tuần sau khi nhiễm trùng...
1. Nguyên nhân của ho dai dẳng kéo dài
Nhiễm trùng đường hô hấp trên là bất kỳ bệnh nhiễm trùng nào xảy ra ở bất kỳ vị trí nào trong mũi, xoang, họng (hầu) hoặc thanh quản. Các triệu chứng thường kéo dài từ 7 đến 14 ngày và có thể bao gồm sốt, ho, đau họng, nghẹt/chảy nước mũi, hắt hơi, nhức đầu và đau cơ.
Ho kéo dài được cho là do dịch nhầy chảy vào cổ họng (chảy dịch mũi sau) hoặc tình trạng viêm liên quan đến nhiễm trùng ban đầu. Phần lớn các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên là do virus và tất cả những bệnh này đều có thể gây ho kéo dài. Các virus thường gặp như: Rhinovirus (cảm lạnh thông thường), cúm, parainfluenza, adenovirus, virus hợp bào hô hấp (RSV).
Ít phổ biến hơn, nhiễm trùng đường hô hấp trên có thể do vi khuẩn như H. influenzae, S.pneumoniae... Nếu những vi khuẩn này lây nhiễm sang các xoang, còn gọi là viêm xoang do vi khuẩn, thì tình trạng nhiễm trùng có thể giống với bệnh ho sau nhiễm trùng cho đến khi bạn được điều trị bằng thuốc kháng sinh.
Nhiễm trùng gây ra nhiều chất nhầy có thể làm tăng nguy cơ ho, đặc biệt nếu không thể làm sạch phổi một cách đầy đủ (hay nói cách khác là chất nhầy không được đào thải ra ngoài). Nguy cơ ho cũng tăng song song với thời gian nhiễm trùng.
Ho dai dẳng rất hay gặp sau nhiễm trùng đường hô hấp trên.
2. Chẩn đoán ho như thế nào?
Chẩn đoán ho sau nhiễm trùng căn cứ vào lâm sàng, chủ yếu dựa trên các triệu chứng và khám sức khỏe của người bệnh. Ví dụ: Thời điểm các triệu chứng cảm lạnh bắt đầu, đặc điểm của cơn ho hiện tại và có triệu chứng nào khác không... Bác sĩ sẽ kiểm tra các chỉ số quan trọng như nghe tim, phổi, khám mũi...
Bác sĩ có thể loại trừ các nguyên nhân khác có thể khiến người bệnh bị ho kéo dài, bao gồm:
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) Bệnh hen suyễn Viêm phổi hoặc viêm phế quản Viêm xoang do vi khuẩn Hút thuốc Sử dụng thuốc (thuốc ức chế men chuyển sử dụng điều trị tăng huyết áp gây ho)\ Suy tim sung huyết Ung thư phổi
Tùy thuộc vào sự nghi ngờ của bác sĩ có thể người bệnh sẽ cần thực hiện thêm các xét nghiệm khác, ví dụ: Chụp X quang phổi, CT, hoặc xét nghiệm đo độ pH (đo nống độ axit trong thực quản)... trước khi chuyển sang kế hoạch điều trị.
3. Khi nào cần tìm kiếm sự chăm sóc y tế
Người bệnh cần đi khám ngay nếu đang bị ho và có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
Ho sau nhiễm trùng thường được chẩn đoán bằng cách khám sức khỏe và xem xét các triệu chứng. Các xét nghiệm bổ sung có thể được chỉ định để loại trừ các nguyên nhân khác, chẳng hạn như hen suyễn. Thở khò khè, ho ra nhiều chất nhầy và sốt là tất cả những dấu hiệu bạn cần được đánh giá càng sớm càng tốt.
Ho ra nhiều chất nhầy (đờm) Thở khò khè hoặc khó thở Sốt dai dẳng Giảm cân không giải thích được Tưc ngực Ho ra máu Nôn mửa trong hoặc sau khi ho Mệt mỏi bất thường
4. Chữa ho dai dẳng thế nào?
Có rất nhiều loại thuốc trị ho, người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc
Ho sau nhiễm trùng có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Vì vậy bác sĩ có thể kê đơn dùng một số loại thuốc.
4.1 Thuốc trị chảy nước mũi sau (dịch chảy vào mũi sau gây ho)
Ho liên quan đến chảy nước mũi sau được điều trị bằng thuốc kháng histamin như clemastine hoặc chlorpheniramine...
Tuy nhiên khi dùng các loại thuốc này, người bệnh có thể buồn ngủ (do tác dụng an thần của thuốc). Mặc dù an thần hơn các loại thuốc mới hơn, nhưng những loại thuốc kháng histamine thế hệ cũ này có hiệu quả hơn trong việc giảm thiểu cơn ho sau virus.
Nếu người bệnh cảm thấy bất lợi về tác dụng an thần của thuốc, bác sĩ có thể kê đơn thuốc xịt mũi như azelastine, fluticasone propionate hoặc ipratropium bromide) hoặc có thể dùng các loại thuốc kháng histamine mới hơn như fexofenadine, loratadine, cetirizine...
4.2 Thuốc trị viêm
Ho sau nhiễm trùng liên quan đến những thay đổi viêm trong mô đường thở được điều trị tương tự như bệnh hen suyễn.
Bác sĩ sẽ kiểm tra kích thích phế quản . Người bệnh sẽ hít một loại thuốc, nếu nó ảnh hưởng đến khả năng thở của người bệnh, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, bác sĩ sẽ kê đơn một hoặc nhiều loại thuốc sau:
Corticosteroid dạng hít Chất đối kháng thụ thể leukotriene, như singulair (montelukast) Prednisone đường uống. Nếu đường thở không nhạy cảm với xét nghiệm trên bác sĩ có thể kê đơn dùng ipratropium bromide dạng hít.
4.3 Thuốc ho không kê đơn
Một số thuốc ho không kê đơn cũng giúp làm dịu cơn ho:
- Thuốc ức chế ho như dextromethorphan giúp ngăn chặn phản xạ ho. Dextromethophan được dùng giảm ho nhất thời do kích thích nhẹ ở phế quản và họng như cảm lạnh thông thường hoặc hít phải các chất kích thích. Thuốc có hiệu quả nhất trong điều trị ho mạn tính, không có đờm và không có tác dụng long đờm. Thuốc thường được dùng phối hợp với nhiều chất khác trong điều trị triệu chứng đường hô hấp trên.
- Guaifenesin là thuốc long đờm, giúp làm loãng đờm nhầy trong đường thở, giúp được loại bỏ dễ dàng hơn thông qua phản xạ ho... Loại thuốc này có cơ chế khác hẳn với dextromethorphan. Vì vậy việc sử dụng hai loại thuốc ho này là khác nhau, cần có sự tư vấn của bác sĩ, dược sĩ...
- Viên ngậm họng cũng thường được sử dụng để kiểm soát cơn ho sau nhiễm trùng, bất kể nguyên nhân cơ bản là gì. Loại thuốc này thường chứa sự kết hợp của các thành phần bao gồm mật ong, tinh dầu bạc hà, dầu khuynh diệp...
5. Lưu ý khi dùng thuốc
Ho là một phản xạ tốt giúp tống các dị vật bao gồm cả virus, vi khuẩn... ra khỏi đường hở. Vì vậy, không nên dùng thuốc ức chế cơn ho. Nếu ho nhiều làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh, nên tư vấn, tham khảo ý kiến của bác sĩ để được dùng đúng thuốc.
Trong quá trình dùng, thuốc có thể gây một số bất lợi cho người sử dụng. Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng để biết được các bất lợi này để nhận diện (nếu xảy ra) và phòng tránh (nếu có thể) hoặc khắc phục...
Trường hợp dùng thuốc không thuyên giảm, người bệnh cần đi khám để đánh giá lại điều trị, bác sĩ sẽ điều chỉnh liều hay phác đồ điều trị khi cần thiết.
Israel phát triển thành công mô tủy sống, mang lại hy vọng cho người bị liệt Ngày 7/2, một nhóm nhà khoa học tại Trung tâm Công nghệ sinh học tái sinh Sagol thuộc Đại học Tel Aviv của Israel đã công bố một nghiên cứu được cho là đầu tiên trên thế giới mở ra hy vọng khả quan cho những bệnh nhân bị liệt lâu ngày có thể phục hồi khả năng đi lại. Theo phóng viên...