Campuchia thí điểm cho phép bệnh nhân triệu chứng nhẹ điều trị tại khách sạn
Theo phóng viên TTXVN tại Phnom Penh, ngày 3/9, Bộ Y tế Campuchia đã ban hành hướng dẫn về thí điểm khai thác khách sạn ở Phnom Penh và Siem Reap để cung cấp dịch vụ chăm sóc và điều trị COVID-19 với chi phí thấp cho các bệnh nhân có triệu chứng nhẹ.
Nhân viên y tế chuyển bệnh nhân COVID-19 tới bệnh viện tại Phnom Penh, Campuchia, ngày 19/3/2021. Ảnh: AFP/TTXVN
Báo Khmer Times dẫn lời Bộ trưởng Y tế Campuchia ngày 2/9 xác nhận danh sách khách sạn đã được chính quyền Phnom Penh và Siem Reap chuẩn bị để tiếp nhận bệnh nhân COVID-19 có triệu chứng nhẹ và Bộ Y tế sẽ cho phép thử nghiệm cách làm này.
Đô trưởng Phnom Penh Khuong Sreng ngày 2/9 cũng cho biết chính quyền thành phố đã ra thông báo và đề nghị phối hợp với các chủ khách sạn để giúp các khách sạn đăng ký danh sách điểm điều trị COVID-19. Theo ông Sreng, Bộ Y tế đề nghị các khách sạn đăng ký phải có kỹ năng về chăm sóc sức khỏe và có đủ nhân lực để phối hợp với các bác sĩ trong điều trị bệnh nhân COVID-19 có triệu chứng nhẹ. Hiện đã có khách sạn tư nhân Kravan trên địa bàn thành phố nhận được giấy phép điều trị bệnh nhân COVID-19 có triệu chứng nhẹ. Tuy nhiên, nhân viên khách sạn chưa tiết lộ chi phí cho một ca điều trị là bao nhiêu
Chính quyền Phom Penh cũng cho biết, số ca mắc COVID-19 trên địa bàn đã giảm từ 400 ca/ngày xuống khoảng 200 ca/ngày trong những tuần gần đây và số ca t.ử v.ong vì COVID-19 cũng giảm từ 10 ca xuống 5 ca/ngày nhờ chiến dịch tiêm phòng được đẩy nhanh và nỗ lực của 14 quận trong thành phố trong việc phối hợp ngăn chặn dịch COVID-19 lây lan.
Trước diễn biến dịch COVID-19 có xu hướng giảm, Đô trưởng Phnom Penh tối 2/9 đã ban hành quyết định thành lập nhóm công tác để đ.ánh giá và giám sát việc mở cửa trở lại các cơ sở giáo dục tất cả các cấp ở Phnom Penh – nơi có mức độ lây nhiễm COVID-19 thấp. Tại tỉnh Kep (phía Nam Campuchia), khi dịch bệnh dịu đi, Sở Giáo dục, Thanh niên và Thể thao tỉnh đã thông báo kế hoạch mở cửa lại trường học trong tháng 9/2021. Kep là tỉnh thứ hai ở Campuchia báo cáo kế hoạch mở lại trường học, sau tỉnh Siem Reap.
Video đang HOT
Ngày 3/9, Bộ Thanh niên, Giáo dục và Thể thao Campuchia cũng đã đề ra thời hạn 2 tuần để tập hợp báo cáo chi tiết từ các tỉnh/thành trên cả nước về số lượng trường học trên địa bàn có thể được mở cửa trở lại một cách an toàn trong bối cảnh tỷ lệ lây nhiễm dịch COVID-19 đã được kiềm chế ở mức tương đối thấp tại mỗi địa phương. Trước đó, ngày 31/8, Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã ra chỉ thị cho Bộ trưởng Bộ Thanh niên, Giáo dục và Thể thao Campuchia Hang Chuon Naron chuẩn bị mở cửa lại các trường học đã tương đối an toàn trước nguy cơ lây nhiễm dịch COVID-19.
Vụ trưởng Vụ Giáo dục – ông Hem Sinareth ngày 2/9 cho biết Bộ trưởng Hang Chuon Naron đã có cuộc họp trực tuyến với tỉnh trưởng và Giám đốc sở giáo dục các tỉnh/thành để thảo luận về việc mở cửa trở lại các trường học. Theo ông Hem Sinareth, bộ trên sẽ sớm tổng hợp các báo cáo từ các tỉnh/thành để đệ trình lên Thủ tướng Hun Sen chờ phê chuẩn, cho phép học sinh tại những nơi được đ.ánh giá là an toàn trở lại trường học. Đô trưởng Phnom Penh Khuong Sreng đã dự cuộc họp trực tuyến với Bộ trưởng Hang Chuon Naron nhưng chưa quyết định số lượng trường học trên địa bàn có thể được mở trở lại. Tại Phnom Penh, có hơn 250 trường công lập, từ mầm mon tới lớp 12.
Hồi tháng 8/2021, tổ chức “Cứu giúp t.rẻ e.m Campuchia” (Save the Children Cambodia) và nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) khác đã gửi bản báo cáo ngắn có tên “Trở lại trường học an toàn” nhằm hối thúc Chính phủ Campuchia mở cửa trở lại các cơ sở giáo dục. Bản báo cáo chỉ ra hơn 3 triệu t.rẻ e.m Campuchia không thể đến trường trong vòng suốt hơn một năm qua sau hai đợt đóng cửa kể từ tháng 3/2020. Theo báo cáo, việc đóng cửa trường học đẩy t.rẻ e.m vào nguy cơ hổng kiến thức do phải học online và không bao giờ có thể quay lại quá trình học như cũ, thậm chí một số trường hợp sẽ bị gián đoạn hoàn toàn việc học hành. Báo cáo cho rằng việc đóng cửa trường học trong thời gian dài tác động nghiêm trọng tới kỹ năng, kiến thức của học sinh, và cũng có ít bằng chứng cho thấy việc đóng cửa trường học có thể góp phần kiểm soát được đại dịch vì nói chung dịch COVID-19 không gây nguy cơ cao đối với t.rẻ e.m.
Ngày 3/9, Bộ Y tế Campuchia thông báo ghi nhận 491 ca mắc COVID-19 trong 24 giờ qua, bao gồm 165 ca nhập cảnh và 326 ca lây nhiễm cộng đồng. Bộ trên cũng thông báo có thêm 9 bệnh nhân COVID-19 t.ử v.ong. Tính đến nay, Campuchia ghi nhận tổng cộng 94.417 ca mắc COVID-19, trong đó 89.897 người đã khỏi bệnh và 1.939 người t.ử v.ong.
'Viên đạn bạc' săn COVID-19
Cuộc chiến toàn cầu chống dịch COVID-19 đã kéo dài hơn một năm rưỡi.
Tiêm vaccine ngừa COVID-19 tại Phnom Penh, Campuchia. Ảnh: THX/TTXVN
Từ những ngày đầu cả thế giới lúng túng trước chủng virus mới, đến nay đã có sự phân hóa tương đối rõ rệt về mức độ thành công của các chiến lược chống dịch mà mỗi nước đang áp dụng. Vaccine cũng đã chứng tỏ là vũ khí hữu hiệu chống virus SARS-CoV-2, song tình trạng khan hiếm nguồn cung và phân phối không đồng đều khiến tiếp cận vaccine vẫn là thách thức đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở châu Á và châu Phi. Bởi vậy, các biện pháp ngăn chặn sự lây lan của virus tiếp tục được các nước ưu tiên áp dụng.
Trong thời gian chờ vaccine, công thức đơn giản nhất để kiểm soát một dịch bệnh truyền nhiễm như COVID-19 là truy vết - cách ly - xét nghiệm, trong đó truy vết là bước đầu tiên mang tính quyết định. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng đ.ánh giá đúng tầm quan trọng và làm tốt công việc căn bản này.
Công tác truy vết trong giai đoạn đầu có vai trò quyết định, được ví như "viên đạn bạc" săn COVID-19 bởi nó giúp xác định được nguồn gốc lây và tâm điểm của dịch COVID-19 để tổ chức phong tỏa kịp thời, cách ly triệt để. Càng truy vết sớm bao nhiêu thì nguy cơ dịch lây lan ra cộng đồng càng giảm bởi việc phát hiện và khoanh vùng sớm các chùm ca bệnh và các ổ dịch phức tạp sẽ giúp ngăn ngừa được các chuỗi lây nhiễm trong cộng đồng. Đây là yếu tố quan trọng để có thể thành công trong phòng chống dịch.
Có một thực tế là nhiều nước phát triển ở phương Tây với nguồn lực tài chính và công nghệ dồi dào lại không thành công trong việc truy vết COVID-19. Ngay khi đại dịch mới bùng phát hồi đầu năm ngoái, châu Âu đã tiến hành truy vết bằng nhiều cách khác nhau, song không mang lại kết quả như mong đợi. Chỉ có 3% dân số Pháp cài đặt ứng dụng truy vết COVID-19, trong khi cần ít nhất 80% số người dùng điện thoại thông minh sử dụng thì ứng dụng mới phát huy hiệu quả. Tại Anh, cơ quan chức năng chỉ liên lạc được với 1/8 số người dương tính với virus SARS-CoV-2 và chỉ truy vết được dưới 50% số người tiếp xúc gần với bệnh nhân COVID-19. Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại phần lớn các bang của Mỹ. Ngay cả khi số điện thoại của bệnh nhân được cung cấp, có tới hơn 50% trong số này không trả lời điện thoại của lực lượng truy vết. Ứng dụng COVID-19 Alert của Canada vấp phải sự phản đối của người dân tại nhiều tỉnh và vùng lãnh thổ. Việc không truy vết được là một trong những nguyên nhân chính khiến châu Âu và Mỹ đã trải qua nhiều tháng khủng hoảng khi số ca mắc COVID-19 tăng cao mất kiểm soát.
Trong kỷ nguyên công nghệ hiện nay, khó có thể nghĩ rằng công nghệ lạc hậu là một trong những lý do khiến các nước phát triển "chậm" hơn virus. Thế nhưng ở Australia và một số bang của Mỹ như Hawaii và Washington, người ta vẫn đang dùng máy fax và điện thoại để thông báo về từng ca mắc COVID-19, khiến báo cáo bị chậm trễ, thậm chí tiềm ẩn nguy cơ sai lệch thông tin. Giới chuyên gia cho rằng Mỹ và châu Âu ít phải chịu ảnh hưởng của các dịch bệnh truyền nhiễm, vì vậy không có sự chuẩn bị đầy đủ về phương tiện và nhân lực truy vết. Một báo cáo của Mỹ ước tính cần khoảng 30 người truy vết phụ trách mỗi 100.000 dân trong trường hợp số ca nhiễm tăng cao.
Tuy nhiên, trong quý II năm ngoái, Mỹ chỉ có chưa đầy 3.000 người truy vết trên tổng số 330 triệu dân và đa phần không có kỹ năng truy vết người mắc COVID-19. Trong khi đó, ngay giai đoạn đầu, Việt Nam, với dân số bằng 1/3 Mỹ, đã triển khai hơn 12.000 người làm nhiệm vụ truy vết được đào tạo bài bản.
Một yếu tố khiến việc áp dụng công nghệ trong truy vết gặp khó khăn là vấn đề quyền riêng tư và bảo mật thông tin cá nhân. Trên thực tế, nhiều nước đã xây dựng các ứng dụng di động riêng để truy vết bệnh nhân COVID-19 và những người có tiếp xúc gần. Ngôn ngữ, giao diện, công cụ định vị của mỗi ứng dụng có thể khác nhau, song có chung cơ chế hoạt động là xác định vị trí và ghi lại lịch trình di chuyển của mỗi người, qua đó có thể cảnh báo người dùng về nguy cơ tiếp xúc với nguồn bệnh.
Tuy nhiên, tranh cãi chưa có hồi kết về vấn đề quyền riêng tư và bảo mật khiến công tác truy vết COVID-19 tại nhiều nước đi vào ngõ cụt. Khảo sát cho thấy tại Mỹ và Đức, 21% số người được hỏi cho biết họ không sẵn lòng cung cấp thông tin về lịch sử đi lại và tiếp xúc của mình. Tỷ lệ này ở Pháp là 25%. Cũng không ít ý kiến phản đối biện pháp cách ly, với những lý lẽ về vấn đề bí mật y tế và coi đây là "giữ người bắt buộc". Nhiều người quay lưng với công tác truy vết vì không tin sự hợp tác của mình sẽ giúp hệ thống y tế đối phó tốt hơn với đại dịch. Trong khi đó, chính phủ nhiều nước không ban hành quy định ràng buộc nào nhằm trao quyền lớn hơn cho lực lượng truy vết. Tất cả những nguyên nhân này đã khiến hàng loạt quốc gia phát triển đ.ánh rơi "viên đạn bạc" để săn virus trong những ngày đầu. Khi số ca mắc theo ngày tăng đến hàng nghìn, việc truy vết từng trường hợp gần như là nhiệm vụ bất khả thi.
Trong khi đó, tại châu Á, một số quốc gia đã thực hiện hiệu quả công tác truy vết. Hàn Quốc, với kinh nghiệm ứng phó với Hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) năm 2015, coi truy vết là yếu tố sống còn trong việc khống chế dịch COVID-19. Luật pháp Hàn Quốc đã có sự điều chỉnh, cho phép cơ quan chức năng sử dụng dữ liệu từ hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để truy vết bệnh nhân COVID-19. Nhờ vậy, những người có nguy cơ lây nhiễm được nhanh chóng khoanh vùng và cách ly, không để dịch lan rộng mất kiểm soát.
Việt Nam cũng được đ.ánh giá là có chiến lược chặt chẽ, bài bản trong công tác truy vết. Ngay từ đầu, Việt Nam xác định truy vết nhanh chóng và triệt để là cách duy nhất để cắt đứt chuỗi lây lan virus. Với phương châm thực hiện truy vết một cách "thần tốc" và "triệt để", đồng thời mở rộng phạm vi truy vết, trong nhiều trường hợp, cơ quan y tế Việt Nam đã hành động nhanh hơn tốc độ lây lan của virus.
Truyền thông quốc tế đ.ánh giá có ba yếu tố giúp công tác truy vết ở Việt Nam đạt hiệu quả cao, đó là sự quyết liệt của chính quyền, sự chuyên nghiệp của lực lượng y tế và sự đồng lòng của người dân. Trong khi một số nước coi nhẹ bước truy vết và thậm chí có tâm lý buông xuôi khi số ca mắc tăng lên nhanh chóng, thì tại Việt Nam, chủ trương truy vết tận gốc được đặt lên hàng đầu. Dù số lượng F0, F1 lên đến hàng trăm người, thậm chí hàng nghìn người, lực lượng chức năng vẫn kiên trì sử dụng nghiệp vụ để truy vết, xét nghiệm và tổ chức cách ly nghiêm ngặt. Theo thống kê, chỉ có chưa đến 1% số ca mắc COVID-19 tại Việt Nam không xác định được nguồn lây. Khảo sát cũng cho thấy tại Việt Nam, chỉ có 4% số người được hỏi e ngại việc cung cấp thông tin liên lạc cho cơ quan chức năng, đa số các F0, F1 nói riêng và của người dân nói chung đều hợp tác. Trong nhiều trường hợp, người dân tham gia vào công tác truy vết bằng cách thông báo với chính quyền khi biết các F0, F1 không tuân thủ các quy định chống dịch. Cũng nhờ truy vết tốt, Việt Nam chỉ cần thực hiện giãn cách cục bộ tại các ổ dịch, thay vì phải cách ly toàn xã hội. Chuyên gia bệnh truyền nhiễm Todd Pollack thuộc Chương trình hợp tác Tăng cường sức khỏe ở Việt Nam nhận định: "Đó không phải là phép thuật. Đơn giản là Việt Nam đã làm tất cả những việc nên làm để chống dịch".
Như đ.ánh giá của ông Helge Berger, Trợ lý giám đốc Quỹ T.iền tệ quốc tế (IMF) phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam đã cho thấy cách ứng phó hiệu quả với đại dịch COVID-19 khi chưa có vaccine ngừa bệnh, mà "chìa khóa" là các biện pháp cách ly nghiêm ngặt, xét nghiệm tức thì và truy vết nhanh nguồn bệnh. Trang mạng gavi.org của Liên minh toàn cầu về vaccine và tiêm chủng (GAVI) đề cao chiến lược truy vết của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh hai yếu tố: vai trò của việc huy động nhanh chóng các chuyên gia y tế, công an, quân đội và các viên chức trong nỗ lực truy vết virus và việc áp dụng công nghệ. Có thể kể tới ứng dụng truy vết và cảnh báo Bluezone mà Việt Nam tự phát triển đã vượt mốc 30 triệu lượt cài đặt, góp phần truy vết hàng nghìn F1, F2, hay ứng dụng khai báo y tế toàn dân NCOVI dành cho người dân Việt Nam và ứng dụng Vietnam health declaration dành cho người nhập cảnh vào Việt Nam. Quỹ Châu Á Thái Bình Dương của Canada nhấn mạnh: "Việt Nam đã thành công trong công tác truy vết nhờ xác định nhanh chóng những người có nguy cơ mắc COVID-19 theo 3 nhóm được Bộ Y tế Việt Nam phân loại: nhóm bị nhiễm, nghi nhiễm và có nguy cơ nhiễm. Bên cạnh đó, việc huy động các chuyên gia y tế, công an, quân đội và các lực lượng khác cũng góp phần tạo nên thành công của chiến dịch truy vết thần tốc tại Việt Nam".
Cuộc chiến chống COVID-19 dường như chưa thể sớm kết thúc và đây chắc chắn không phải đại dịch cuối cùng mà thế giới phải đối mặt. Không thể phủ nhận truy vết là bước then chốt, là "viên đạn bạc" săn virus, quyết định một dịch bệnh truyền nhiễm có lan rộng hay không. Vì vậy, việc liên tục phát triển các ứng dụng truy vết vừa đảm bảo hiệu quả, vừa có tính bảo mật cao là bài toán không của riêng quốc gia nào. Tuy nhiên, dù công nghệ phát triển đến đâu thì con người vẫn đóng vai trò trung tâm, và sẽ không có ứng dụng nào có thể truy vết triệt để nếu không có ý thức tự giác khai báo, sự hợp tác, chung tay chống dịch của người dân và chính phủ. Chỉ khi đó, "viên đạn bạc" săn virus mới phát huy tác dụng.
Thầy bói qua đời vì mắc Covid-19, Campuchia truy vết người tiếp xúc Chính quyền Svay Rieng ngày 21/6 kêu gọi những người từng đến xem bói ở quầy của một phụ nữ 58 t.uổi phải tự cách ly, sau khi bà này qua đời vì mắc Covid-19. Địa điểm hành nghề của thầy bói Tes Saroeun là chợ Veal Yon, làng Chek, huyện Sangkat Chek, thành phố Svay Rieng. Nhà chức trách thành phố đề...