Cách phương pháp giúp người già giảm nguy cơ mắc chứng mất trí
Những người trong độ tuổi 50-60 nếu được gặp gỡ bạn bè hay người thân hằng ngày, nguy cơ mắc chứng mất trí ít hơn 12% so với những người một vài tháng mới được tiếp xúc với người thân quen.
Người cao tuổi tích cực tham gia các hoạt động xã hội và gặp gỡ người thân sẽ giúp giảm nguy cơ mắc chứng mất trí. (Nguồn: qbi.uq.edu.au)
Việc những người trong độ tuổi 50-60 tiếp tục tích cực tham gia các hoạt động xã hội, có các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với bạn bè mỗi ngày sẽ giúp họ giảm đáng kể nguy cơ mắc chứng mất trí sau này.
Đây là kết luận của các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học London (UCL) sau khi theo dõi 10.228 người trong suốt ba thập kỷ.
Công trình nghiên cứu được công bố trên ấn bản mới nhất của tạp chí y khoa PLOS Medicine.
Trong quá trình nghiên cứu, các chuyên gia đã khảo sát những đối tượng tham gia về các mối liên hệ xã hội của họ 6 lần trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến năm 2013.
Các chuyên gia cũng phân tích hồ sơ sức khỏe và từ năm 1997 tiến hành kiểm tra nhận thức của những người tham gia nghiên cứu để đánh giá nguy cơ mắc chứng mất trí.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng với những người ở độ tuổi nói trên (50-60 tuổi), nếu được gặp gỡ bạn bè hay người thân hằng ngày, nguy cơ mắc chứng mất trí ít hơn 12% so với những người một vài tháng mới được tiếp xúc với những người thân thiết, gần gũi với họ.
Video đang HOT
Các chuyên gia cũng rút ra kết luận tương tự với những người ở độ tuổi lớn hơn (60-70 tuổi).
Theo giáo sư Gill Livingston, chủ nhiệm công trình nghiên cứu, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, giao tiếp hằng ngày giúp những người lớn tuổi rèn luyện các kỹ năng nhận thức như củng cố trí nhớ, trau dồi tư duy ngôn ngữ và kỹ năng sử dụng ngôn từ.
Điều này có thể giúp người có tuổi hạn chế được những tác động tiêu cực của quá trình lão hóa của cơ thể, của tuổi già và giảm nguy cơ mất trí sau này./.
Thanh Hải
Theo TTXVN/Vietnamplus
Ăn sô cô la đen không chỉ giảm cân mà còn giúp giảm nguy cơ mắc căn bệnh rất phổ biến trong cuộc sống hiện đại
Những người ăn sô cô la đen có dấu hiệu lâm sàng của bệnh trầm cảm thấp hơn 70% so với những người khác.
Các nhà nghiên cứu của Đại học London đã tiến hành hỏi hơn 13.000 người về chuyện ăn sô cô la và các triệu chứng trầm cảm. Những người tham gia được yêu cầu nhớ lại những gì họ đã ăn trong 10 ngày. Sau đó, các chuyên gia y tế sẽ sử dụng một công cụ để đánh giá các triệu chứng trầm cảm của họ.
Sau khi thống kê, họ nhận thấy rằng những người ăn sô cô la đen có dấu hiệu lâm sàng của bệnh trầm cảm thấp hơn 70% so với những người khác. Những người cũng ăn sô cô la nhưng là sô cô la trắng và sô cô la sữa không có được lợi ích như vậy.
Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí Depression and Anxiety (Trầm cảm và Lo âu), cũng có sự tham gia của các nhóm các nhà khoa học có trụ sở tại Canada. Trong khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu do Tiến sĩ Sarah Jackson tại UCL dẫn đầu đã tính đến cả các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm bao gồm hoạt động thể chất và hút thuốc.
Bác sĩ Jackson và những người tiến hành nghiên cứu công nhận rằng sô cô la đen có chứa nhiều chất chống oxy hóa, làm giảm viêm trong cơ thể - một phản ứng có liên quan đến trầm cảm.
Viết trên tạp chí, nhóm nghiên cứu cho biết: "Có một số cơ chế tiềm năng thông qua đó tiêu thụ sô cô la có thể ngăn chặn sự khởi phát hoặc gây ra các triệu chứng trầm cảm. Sô cô la chứa một số thành phần tâm sinh lý, bao gồm hai chất tương tự anandamine (tạo ra các hiệu ứng tương tự như cannabinoid tạo ra sự hưng phấn) và một số amin sinh học nội sinh. Đáng chú ý, trong đó còn có phenylethylamine, một chất điều chế thần kinh được cho là quan trọng để điều chỉnh tâm trạng và có liên quan đến sinh bệnh học của trầm cảm".
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa nhận cần phải tiến hành thêm các thử nghiệm khác nữa mới có được kết luận chắc chắn liệu ăn sô cô la có chống được chứng trầm cảm hay không. Bởi nhóm nghiên cứu cho rằng có thể có trường hợp những người bị trầm cảm ăn ít sô cô la vì tâm trạng thấp kém khiến họ mất hứng thú với việc ăn đồ ngọt nên tình trạng trầm cảm giảm đi.
Trầm cảm là một tình trạng bệnh lý, có thể gây ra những triệu chứng trầm trọng ảnh hưởng đến cảm giác, suy nghĩ và các hoạt động hàng ngảy như ngủ nghỉ, ăn uống, làm việc... Do yếu tố sinh học, hormone và các tác động xã hội mà phụ nữ dễ bị trầm cảm hơn nam giới.
Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (NIMH) đã tổng kết và đưa ra 4 điều mọi người nên biết về trầm cảm ở phụ nữ như sau:
1. Trầm cảm thực sự là một tình trạng sức khoẻ
Các nghiên cứu hiện tại cho thấy trầm cảm là do sự kết hợp của các yếu tố di truyền, sinh học, môi trường và tâm lý. Hầu hết những người bị trầm cảm đều cần điều trị để cảm thấy tốt hơn.
2. Trầm cảm có thể tổn thương theo nghĩa đen
Một người bị trầm cảm cũng có thể gặp nhiều triệu chứng khác về mặt thể chất như: Đau nhức, đau đầu, chuột rút, hoặc các vấn đề về tiêu hóa. Một người bị trầm cảm cũng có thể gặp khó khăn khi ngủ, thức dậy vào buổi sáng, và cảm thấy mệt mỏi.
3. Một số loại trầm cảm xảy ra ở mỗi giai đoạn khác nhau trong cuộc đời người phụ nữ
Mang thai, giai đoạn sau sinh, giai đoạn tiền mãn kinh và chu kỳ kinh nguyệt đều liên quan đến những thay đổi thể chất và hormone. Chính bởi vậy, có một số loại trầm cảm ở phụ nữ xảy ra ở các giai đoạn khác nhau của cuộc đời người phụ nữ bao gồm:
- Rối loạn tâm thần trước khi mãn kinh (PMDD)
- Trầm cảm chu sinh
- Trầm cảm ở giai đoạn mãn kinh
4. Trầm cảm có thể được điều trị
Trầm cảm thường được điều trị bằng thuốc men, liệu pháp tâm lý (nói chuyện với một chuyên gia được đào tạo) hoặc kết hợp cả hai.
Theo Helino
Làm thế nào để giảm nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ? Chứng mất trí, hiện không có thuốc chữa, ảnh hưởng đến khoảng 50 triệu người trên toàn thế giới. Đến năm 2050, con số này được dự đoán sẽ đạt 152 triệu người. Để cố gắng giải quyết một phần của cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra một bộ hướng dẫn mới...