Cách mạng tháng Tám: Bất ngờ ‘cuộc bắt tay’ Việt – Mỹ
Ít người biết rằng tháng 8/1945, trong các đội quân Việt Minh chống trả quân đội Nhật, có sự xuất hiện của những người lính Mỹ.
Bác Hồ và tướng Chenault
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, tình hình chiến tranh thế giới hiện rõ kết quả quân Đồng Minh sắp thắng lợi. Cũng vào lúc này, Bác Hồ và Mặt trận Việt Minh đang ra sức chuẩn bị để giành độc lập cho nước nhà.
Cũng thời điểm ấy, quân Đồng minh hướng sự chú ý tới Đông Dương vì đây là một đầu cầu quan trọng mà quân Nhật đang nắm giữ. Mỹ đã phái các sĩ quan OSS (một tổ chức tình báo tiền thân của CIA) đến phía nam Trung Quốc hoạt động nhằm tìm hiểu tình hình Đông Dương, phục vụ cho cuộc tấn công quân Nhật sau này.
Để phục vụ công tác, Archimedes Patti – viên sĩ quan OSS được giao nhiệm vụ, đã tìm cách liên lạc với lực lượng Việt Minh và được gặp Bác Hồ tại một ngôi làng nhỏ trên đất Trung Quốc. Bác Hồ tỏ ra rất thiện chí giúp đỡ công việc của OSS.
Vào thời gian này, máy bay của quân Đồng Minh đã bắt đầu những trận không kích vào vị trí của quân Nhật trên đất Đông Dương, mà chủ yếu là ở Việt Nam. Một số máy bay đã bị quân Nhật bắn rơi. Người Mỹ rất quan tâm đến số phận những phi công bị bắn rơi này. Một trong những phi công Mỹ bị bắn rơi tên là R.Shaw đã được Việt Minh cứu thoát.
R.Shaw chẳng những được Việt Minh giúp đỡ thoát khỏi nanh vuốt quân Nhật, mà còn được đưa sang tận Côn Minh để trở về với đơn vị. Để cảm ơn Việt Minh, ngày 29/3/1945, tướng Chennault – tư lệnh quân đoàn Không quân số 14 của Mỹ đã gặp Bác Hồ.
Bác Hồ và tướng Giáp chụp ảnh cùng toán Con nai của OSS tháng 8/1945. Ảnh: Thanh niên.
Cuộc gặp gỡ giữa Bác và tướng Chennault được Archimedes Patti – chỉ huy OSS phụ trách nhiệm vụ về Đông Dương kể lại trong cuốn Tại sao Việt Nam: “Ngày 29/3, Fenn, Bernard và Hồ Chí Minh được đưa đến cơ quan và giới thiệu với tướng Chenault. Fenn kể lại: “Chennault rất cảm ơn ông Hồ về việc người phi công được cứu thoát. Ông Hồ đáp lại bao giờ ông cũng sung sướng được giúp đỡ người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông ta hết mực ca tụng. Họ chuyện trò về đội Hổ bay.
Video đang HOT
Chennault tỏ ra hài lòng về những câu chuyện mà ông Hồ biết chung quanh vấn đề này. Họ bàn chuyện cứu các phi công bị nạn. Không ai nói gì đến người Pháp hoặc nói chuyện chính trị. Tôi thở phào khi mọi người sắp từ biệt nhau. Lúc đó, ông Hồ nói rằng ông muốn xin một vật kỷ niệm nhỏ.
Và tất cả cái mà ông muốn chỉ là một cái ảnh của tướng Chennault. Đúng lúc, một tập ảnh 8×10 được đưa ra. “Hãy chọn lấy”, Chennault nói. Ông Hồ cầm lấy một chiếc ảnh và hỏi tướng Chennault có vui lòng cho xin chữ ký? Chennault liền viết ở dưới “Bạn chân thành của tôi. Claire L. Chennault”.
Theo một số nguồn tài liệu khác, ngoài bức ảnh, tướng Chenault còn tặng cho Bác Hồ 6 khẩu súng ngắn mới của Mỹ để làm trang bị cho lực lượng Việt Minh. Những ảnh và súng của Chenault là những kỷ vật đầu tiên đánh dấu sự hợp tác Việt – Mỹ trong cuộc chiến chống Phát xít của nhân loại.
Những người khách OSS trong CM tháng 8
Có một điều ít được nhắc tới là trong cuộc Cách mạng tháng 8, Việt Minh có những vị khách ngoại quốc luôn đi cùng từ chiến khu về tới Ba Đình. Họ chính là những nhân viên OSS trong toán của thiếu tá Thomas đã đến Tân Trào trước khi nổ ra khởi nghĩa vài tuần.
Vào ngày 16/8, khi đại hội quốc dân được tổ chức tại Tân Trào thì các thành viên OSS cũng có mặt ở đây. Thêm nữa, trước đó họ đã giúp đỡ huấn luyện cho hơn 200 du kích của tướng Giáp và tướng Chu Văn Tấn. Do vậy, khi các đại biểu về Tân Trào dự họp, đã rất phấn khởi thấy Việt Minh có lực lượng trang bị tốt bằng vũ khí Mỹ, cùng cỡ cùng kiểu và rất có kỷ luật.
Thêm vào đó, sự hiện diện của các nhân viên Mỹ, dù không ai nói ra nhưng mọi người đều cảm giác như Việt Minh được Đồng minh ủng hộ. Niềm tin đó theo các đại biểu sẽ lan ra khắp nơi. Trong một chừng mực nào đó có thể tác dụng thêm vào tinh thần quân Nhật vốn đã rệu rã sau khi Nhật hoàng đầu hàng.
Patti kể lại trong cuốn Tại sao Việt Nam về điều đó: “Vì Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp. Người ta đã nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân.
Trang bị và vũ khí Mỹ của họ còn mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất…. Với bức ảnh có kèm theo chữ ký của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là Việt Minh và đặc biệt là “Cụ Hồ” đã được Đồng Minh “bí mật ủng hộ”.
Trong vai trò quan sát, nhóm OSS của Thomas đã đi cùng đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân từ Tân Trào về đến Hà Nội. Và trong ngày nước Việt Nam tuyên bố nền độc lập với thế giới, những nhân viên OSS Mỹ cũng là một trong những người nước ngoài chứng kiến.
Trước toán của thiếu tá Thomas, Patti đã tới Hà Nội từ 22/8. Trong ngày độc lập lịch sử của người Việt Nam, Patti cùng những nhân viên đã hòa vào dòng người đổ về Ba Đình. Ông ta còn nhớ như in khung cảnh: “Cho đến tận trưa, cả toán OSS chúng tôi lăn lộn ở ngoài phố, chụp ảnh, ghi chép về các nhóm người, các sự kiện, các khẩu hiệu, biểu ngữ, áp phích…
Có nhiều khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, Anh, một số bằng tiếng Việt Nam: “Việt Nam của người Việt Nam”, “Hoan nghênh Đồng minh”, “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”, “Thà chết, không nô lệ”…Đội danh dự và công tác bảo vệ được giao cho bộ đội của Giáp và Chu Văn Tấn, lực lượng được huấn luyện, trang bị, có kỷ luật nhất của họ.
Mũ bấc, đồng phục kaki, quần soóc, tất cao, họ trưng bày các vũ khí mới một cách hãnh diện, lúc trong tư thế “đứng nghiêm”, lúc “nghỉ”. Ở đó còn có các đơn vị “tự vệ”, dân quân mặc áo lẫn lộn quần áo nhà binh Pháp hoặc Nhật hoặc quần áo ngắn xanh hay đen, mang theo một loạt các vũ khí cũng lộn xộn, từ súng kíp, gươm, dao rùa, mã tấu có cán gỗ dài và cả gậy tày… Có thứ hình như họ mới lấy từ các đình, chùa ở làng ra. Tất cả dựng lên một cảnh tượng sinh động”.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác nói rằng “một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy mươi năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập…”. Những tư liệu nói trên đã minh chứng cho lời nói của Bác Hồ, đồng thời phần nào xác nhận người Mỹ và người Việt từng đứng cùng một chiến tuyến chống chủ nghĩa phát xít.
Theo VTC
Kỷ niệm 68 năm Cách mạng tháng Tám (19-8-1945/19-8-2013) và Quốc Khánh (2-9-1945/2-9-2013): Ngày đẹp nhất
Cách mạng Tháng Tám là bước ngoặt trọng đại trong tiến trình lịch sử nước nhà. Một chân trời mới mở ra với nền Cộng hòa non trẻ. Đứng đầu Nhà nước này là một vị Chủ tịch giàu cốt cách gánh vác, dường như ở đây đã có sự chuẩn bị mang ý nghĩa cơ trời vận đất.
Đây là những ngày tháng đẹp nhất trong những ngày tháng đẹp, để hôm nay ngoảnh lại mỗi người trong chúng ta còn chưa hết rưng rưng. Hãy hình dung, từ vũng bùn nô lệ một đám đông khổng lồ bật dậy với hai bàn tay trắng và quả tim nóng, gọi nhau đứng quanh Người, gọi nhau làm một cuộc lên đường rất dài và rất nhiều chông gai, dám sống và dám chết cho nền tự do độc lập dân tộc, trong đó có chính mình. Từ buổi đầu Bác đã trang trọng nói trước toàn thể đồng bào: "Tự do cho một dân tộc mà không có tự do cho mỗi người thì cái tự do ấy liệu để làm gì!".
Thân phận mỗi người dân nước Việt đã được Người nhìn nhận bằng một tầm nhìn mang khát vọng nhân quyền ở một xã hội có đẳng cấp. Người trở về Tổ quốc như một huyền thoại, như một giấc mơ mà lại cũng hết sức gần gũi. Người ra đồng cùng bà con tát nước chống hạn, cùng các cụ già trồng cây, bón cơm mớm cháo cho trẻ thơ và làm thơ gửi cả nước mỗi bận xuân về.
Đầu tháng chín năm ấy Người đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình. Bản Tuyên ngôn tự tay Người thảo bằng nội lực giống nòi, bằng hồn thiêng núi sông, bằng khí phách toàn dân tộc.
Vài hôm sau Người cho gọi mấy đồng chí phụ trách Nha Công an Bắc Việt lên làm việc, lúc chia tay người dặn dò, sinh ra các chú là phải có bắt bớ, vậy Bác tặng các chú mấy câu để mang theo trên đường công tác lâu dài: "Hay bắt không bằng bắt hay, bắt hay không bằng không hay bắt".
Phương Tây có câu người mạnh là người biết nói đùa. Lại có câu mọi việc nghiêm chỉnh đều giấu dưới nụ cười. Càng đau càng phải biết cười, cho nên Bác mới hay cười. Thiết nghĩ sau nụ cười hôm ấy của Bác còn có mênh mông một tình yêu thương con người. Nhà văn Xô Viết Mendenxtam từng nói: "Tôi nhìn thấy nụ cười Nguyễn Ái Quốc có mang ánh sáng của một nền văn hóa tương lai".
Khoan hòa mà lẫm liệt, Người đã thực hiện một cuộc lên đường đầy tinh thần minh triết giữa một nhân loại đang vỡ ra biết bao biến cố khôn lường. Đó là một chuyến đi dài ba chục năm, mỗi chặng đường một cái tên. Những cái tên khiến đồng chí đồng bào ngóng đợi mà kẻ thù thì ngần ngại. Con người nhân ái là thế lại có thể cũng là một nỗi ám ảnh khiếp hãi đối với các thế lực thực dân cũ và mới.
Là Tổ quốc? Vâng, quả có thế. Là kẻ bị săn đuổi ruồng bỏ? Vâng, quả có thế... Nhưng thưa, không hẳn chỉ có thế. Đây còn là Người một mai sẽ nhảy xuống sông mở đập, áo vải phong phanh mà trí lực nuốt ngưu, là người lĩnh xướng, người chỉ huy, nhà kiến tạo, nhà tổ chức xuất sắc của một nhân dân xuất sắc.
Người ấy đã từng khóc thầm trong đêm vắng Paris ngồi đọc Luận cương Lênin bàn về phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, đã từng kể trong những năm tháng bôn ba, chỉ thấy có dạo ở Mỹ nghe chừng dễ chịu hơn cả, bước ra đường người ta còn muốn chuyện trò với mình. Đã từng ghi vào tâm khảm câu nói hay của thổ dân da đỏ "Một người vì mọi người, mọi người vì một người" và đọc Tuyên ngôn Độc lập Mỹ 1776, say mê luôn Thomas Jefferson, một chính khách lỗi lạc, cha đẻ của bản tuyên ngôn đó, khen ông này có nhân cách liêm chính, tầm mắt rộng, yêu con người.
Suốt bốn mươi năm hoạt động Thomas Jefferson đã từng ở các cương vị Chủ tịch Đảng Dân chủ, Thống đốc bang, Ngoại trưởng rồi Tổng thống. Ông từng để lại những câu nói nổi tiếng, minh triết cần phải lớn lên cùng quyền lực của chúng ta. Minh triết dạy chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực càng lớn!
Hồ Chí Minh ra đời sau Thomas Jefferson gần hai thế kỷ, ở hai miền xa lạ vậy mà cả hai đã cùng yêu, và đều là hiện thân của minh triết. Họ đã gặp nhau trong cách tiếp cận xem xét sự vật, lắng nghe được cả những tiếng gọi xa vời của thực tiễn, và cả hai đều nhún vai trước tất cả những gì gọi là giáo điều thô bạo, với đủ mọi biểu hiện thê thảm của nó và tất nhiên, sẵn sàng dẫm lên nó mà đi tới.
Còn có một điểm chung giữa họ nghĩ thật rất lạ lùng, cả hai người ấy sinh khác ngày nhưng lại đều biết chọn ngày quốc khánh nước mình để qua đời.
Thomas Jefferson mất ngày 4-7-1815, còn Hồ Chí Minh mất ngày 2-9-1969, một sự trùng hợp ngẫu nhiên không giải thích, chỉ có một điều không hề ngẫu nhiên đấy là Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trích dẫn những lời hào sảng mang tinh thần nhân quyền cao mà Thomas Jefferson đã đưa vào Tuyên ngôn Độc lập Mỹ như một thông điệp gửi đến nhân loại tương lai.
Nhà văn Đỗ Chu
Theo ANTD
Đường 30 tỷ vừa khánh thành đã đầy... "ổ gà" Cách đây khoảng 6 tháng, TP Cần Thơ đã khánh thành và đưa vào sử dụng đường vành đai phi trường nhánh A. Từ đó đên nay, con đường này liên tục xuất hiện "ổ gà, ổ trâu". Đường vành đai phi trường vừa khánh thành đã xuất hiện hàng loạt "ổ gà", "ổ trâu" Đường vành đai phi trường thuộc địa bàn...