Các vị thuốc từ mèo
Không chỉ là vật nuôi hữu ích, là biểu tượng văn hóa phổ biến, là nguồn thực phẩm ngon bổ và nguyên liệu cho một số ngành đặc biệt, mèo còn mang tác dụng y dược đa dạng. Hầu hết các bộ phận từ cơ thể mèo đều có thể đem chế được thành thuốc, dùng để tăng cường sinh lực, phòng chống và chữa trị hiệu quả nhiều bệnh ở người. Thịt mèo : Là món đặc sản quý, thơm ngon, bổ dưỡng, vị ngọt, hơi mặn và chua, tính ấm, không độc, có tác dụng tiêu thũng, chống lao lực, giải độc, giảm đau. Có thể luộc, hấp, xào, nướng, ninh… riêng thịt mèo hoặc nấu kèm một số gia vị, thực vật khác như hành, tỏi, gừng, sả, dứa, long nhãn, đảng sâm… Mỗi ngày dùng 50-100g thịt mèo dưới dạng nấu chín ăn hoặc sấy khô, tán bột uống sẽ đặc trị chóng mặt, mụn nhọt, lao phổi, chướng bụng và trĩ mãn tính. Đem thịt mèo ninh nhừ, thêm ít muối và rượu, ăn trong ngày chữa loét dạ dày, hành tá tràng. Lấy thịt mèo (100g) thái nhỏ, hấp cách thủy với đảng sâm (30g) và long nhãn (15g), ăn cái, uống nước thì chữa thần kinh suy nhược, xuất huyết dưới da do dị ứng. Dùng thịt mèo (100g) nấu chín với khởi tử (25g), hoàng tinh (10g) và long nhãn (8g), ăn cả cái lẫn nước sẽ trị chứng gan, thận hư nhược. Đem thịt mèo (tốt nhất là mèo rừng) sống hoặc nướng chín ngâm vào rượu mạnh (tối thiểu 1 năm), uống sẽ phòng chữa bệnh sốt rét. Máu mèo: Cắt chót đuôi lấy máu mèo, hòa rượu uống, trị cảm lạnh, méo miệng, co giật, động kinh. Xương mèo: Mang vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ dưỡng (đặc biệt là xương mèo đen). Đem ngâm rượu uống, nó là thuốc bổ, giảm đau nhức gân xương, rất thích hợp cho người cao tuổi. Lấy xương mèo (tốt nhất là mèo rừng) tán bột, dùng uống hoặc đốt thành than, đắp ngoài thì sẽ đặc trị đau khớp, trĩ, nhọt độc, cam tích. Còn dùng xương đầu mèo nếu đem đốt thành tro, tán nhỏ, mỗi lần uống 12g với rượu sẽ chữa ho suyễn do đờm khí hoặc bôi ngoài chữa lở ngọc hành ở trẻ em; nếu đem đốt tồn tính, tán bột, mỗi lần uống 10-15g với rượu sẽ chữa cam tẩu mã. Phổi mèo: Dùng phổi mèo (1 bộ) băm nhỏ trộn với đọt lá sòi tía (80g) và ngũ vị tử (20g), làm thành chả nướng hoặc hấp chín, ăn sẽ đặc trị hen suyễn. Gan mèo: Lấy gan mèo (tốt nhất là mèo đen) thái nhỏ, phơi khô, tán bột, mỗi lần uống 4g với rượu nhạt vào lúc đói, sẽ chữa được hư lao. Dạ dày mèo: Dùng dưới dạng luộc, xào để ăn hoặc ngâm sống trong rượu mạnh (tối thiểu nửa năm) để uống, chữa cơ thể suy nhược, xanh xao, gầy yếu. Mật mèo: Mang vị đắng, tính hàn, có tác dụng giảm đau, chống co thắt. Đem mật mèo (tốt nhất là mèo đen) ngâm rượu uống hàng ngày sẽ trị hen suyễn, đau bụng kinh niên. Lấy mật mèo (tốt nhất là mèo rừng) pha loãng sẽ chế được thành thuốc chữa đau mắt. Nước tiểu mèo: Dùng nước tiểu mèo rỏ vào lỗ tai sẽ làm cho con đỉa hoặc sâu bọ đã chui vào trong đó phải bò ra ngoài. Lấy nước tiểu mèo bằng cách: bắt mèo, giữ chặt 4 chân, dùng gừng tươi xát vào lỗ mũi hoặc vỏ bưởi xát vào trôn, mèo sẽ đái vọt ra, hứng lấy. Phân mèo: Theo danh y Hải Thượng Lãn Ông trong tác phẩm “Lĩnh nam bản thảo” thì phân mèo sao khô là thuốc chữa được chứng đậu, sởi ở trẻ em. Còn theo danh y Tuệ Tĩnh trong tác phẩm “Nam dược thần hiệu” thì nếu gom phân mèo đã khô trên mái nhà bọc kín lại bằng đất sét rồi nướng trên than hồng, sau đó nghiền thành bột, trộn với đường cát, ăn sẽ đặc trị ho lao, kiết lỵ! Ngoài ra, trong y học hiện đại, mèo còn được dùng để thử tác dụng của thuốc chữa bệnh về tim như đối với các chế phẩm của dương địa hoàng (digitalis purpurea), người ta lấy đơn vị “mèo” để nghiên cứu đánh giá chất lượng thuốc. Ruột mèo có thể được dùng làm chỉ khâu trong phẫu thuật. Mèo thường săn bắt, tiêu diệt chuột cũng là việc trừ được những mầm bệnh nguy hiểm cho người và gia súc, gia cầm. Theo Báo Mới
Những sai lầm nguy hiểm khi sơ cứu
Ai cũng có kiến thức nhất định về sơ cứu trong trường hợp khẩn cấp nhưng đôi khi một số cách làm lại khiến mọi việc tồi tệ hơn.
Hãy đặt mình vào trắc nghiệm dưới đây và tự hỏi: Mình sẽ làm gì nếu gặp phải tình huống đó?
1. Trẻ bị bỏng, nhiều người vội vàng dùng nước đá hay dầu ăn để chườm, rồi nhanh chóng cởi bỏ quần áo của trẻ
Đó đều là những cách không đúng. Các loại dầu mỡ có thể tổn hại đến vùng da rất nhạy cảm này, còn nếu quần áo hay các vật liệu khác mắc kẹt vào vết bỏng sẽ có thể kéo cả vùng da non đó lên. Phản ứng đúng là rửa nhẹ bằng nước lạnh (không nhất thiết phải là nước có đá) rồi bôi qua thuốc mỡ kháng sinh. Nếu vết bỏng ở mặt hoặc phồng rộp lên, nên đến ngay phòng cấp cứu.
Video đang HOT
2. Gặp người lên cơn động kinh, mỗi người lại có quan niệm khác nhau
Di chuyển đến nơi khác, cố để họ mở miệng bằng cách cho họ ngậm gì đó hoặc đơn giản là chờ đợi cho cơn động kinh qua. Một lần nữa, những sai lầm trong việc sơ cứu có thể khiến người bệnh bị thương nặng hơn. Giữ cho miệng mở hay di chuyển đến chỗ khác có thể dẫn đến chấn thương như rách cơ. Chỉ đưa họ đi chỗ khác nếu đó là nơi không an toàn, người ta có nguy cơ ngã xuống hoặc bị thương. Nên tháo khuy cổ để người đó dễ thở và đừng bao giờ giữ người bệnh nằm yên. Với người đã có tiền sử động kinh, nên gọi cấp cứu khi hiện tượng kéo dài quá 5 phút.
3. Bị bong gân vùng mắt cá chân, nên chườm lạnh hay chườm nóng, có phải đi cấp cứu ngay không?
Đây là một chấn thương rất phổ biến mà nhiều người thường bỏ qua phần chăm sóc y tế. Lưu ý quan trọng nhất là phải chườm lạnh. Làm nóng sẽ làm sưng hơn và kéo dài quá trình lành vết thương. Nếu đặt bất kỳ vật nhỏ nào lên chân mà cảm thấy đau, nên đi chụp chiếu để xem có bị rạn xương hay không.
4. Bị rắn cắn, mọi người vẫn cho rằng phản ứng bằng cách
Cởi áo để quấn vết thương, hút chất độc rồi nhổ đi, lấy con dao nhỏ rạch vết thương cho chất độc thoát ra. Đó đều là những cách không cần thiết và khá nguy hiểm. Nếu dùng dao rạch phải gân hay dây thần kinh thì còn nguy hiểm hơn trong khi miếng ga-rô hạn chế lưu thông máu, có thể dẫn đến mất chi. An toàn nhất là ngay lập tức nẹp vết thương hoặc bọc nó bằng miếng vải sạch rồi đưa đi cấp cứu.
5. Trường hợp chảy máu cam, bạn nghiêng về phía trước và véo chặt mũi hay ngả đầu về phía sau sao cho máu không thể chảy ra
Quan trọng hơn, làm thế nào để biết rằng khi nào là nghiêm trọng để cần can thiệp y tế? Thực tế, chảy máu cam không phải là tình huống khẩn cấp nhưng nhiều người không biết cách sơ cứu cho đúng. Nếu nghiêng về phía trước và véo chặt mũi (tránh phần xương sống mũi), bạn đã làm đúng. Khi ngả đầu về phía sau, máu không chảy được ra ngoài nhưng sẽ có thể nguy hiểm nếu dòng máu chảy không ngừng lại nhanh. Nếu chảy máu không ngừng trong vòng 5 phút, nên đi khám.
kỹ thuật Heimlich trong sơ cứu người bị tắc nghẽn họng (ảnh minh họa)
6. Tình huống dùng thuốc quá liều hay gặp phải là đứa con 3 tuổi của bạn uống hết cả lọ thuốc vitamin
Nhiều người nghĩ vitamin là chất bổ thì sẽ an toàn nhưng trường hợp này, nên đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt. Trên thế giới, đã có nhiều trường hợp trẻ em chết vì dùng sắt quá liều. Bị ngộ độc nói chung, nên mang theo những sản phẩm đã nuốt vào để tạo điều kiện cho việc xét nghiệm. Hiện đã có một số loại thuốc uống giúp nôn ra nhưng có một số ca ngộ độc hậu quả tồi tệ hơn do nôn mửa và bệnh nhân nôn mửa lại gây khó khăn cho việc điều trị tại bệnh viện.
7. Người lớn và trẻ em đều có thể bị nghẹt thở do dị vật mắc kẹt trong họng hay khí quản
Bạn vỗ lưng hoặc đưa cho người đó cốc nước? Phản ứng của bạn phải tùy thuộc vào người bị nghẹn: Nếu ho dữ dội và có thể nói một chút, đó là tắc nghẽn một phần; Nếu chỉ gật hoặc lắc đầu, thậm chí khó thở, da mặt chuyển sang màu xanh hoặc nâu sẫm, không nên cho họ uống nước vì chất lỏng sẽ bít nốt phần không khí ít ỏi có thể lưu thông.
Với người bị tắc nghẽn hoàn toàn, kỹ thuật Heimlich là cần thiết: Vòng tay từ sau lưng, đặt tay lên ngay trên rốn và giật cứng vào bụng theo hướng lên trên như thể nhấc người lên. Kỹ thuật này không làm với trẻ dưới 1 tuổi. Riêng trẻ sơ sinh cho nằm úp trên cẳng tay với đầu thấp hơn thân rồi lấy hai ngón tay đặt giữa xương ức của trẻ để ép vào ngực 5 lần. Nếu người bị nạn bất tỉnh cần gọi cấp cứu đồng thời làm hô hấp nhân tạo.
Theo PLXH
Dùng sai liều, thuốc chống động kinh phản chủ Việc phát hiện ra động kinh và điều trị là cần thiết. Nhưng nếu sử dụng thuốc chống động kinh tùy tiện thì có thể gây nguy hại nặng nề hơn cả khi không dùng thuốc. Thuốc nào tốt nhất? Các thuốc chống động kinh thường có hai cơ chế tác dụng. Cách thứ nhất, tác động trực tiếp vào ổ tế bào...