Các triệu chứng viêm gan C ở phụ nữ
Viêm gan C là bệnh do vi-rút mà nếu không điều trị, có thể gây tổn thương gan lâu dài. Trong khi bệnh xảy ra ở cả hai giới, thì nó có thể gây ra các triệu chứng và biến chứng khác nhau ở phụ nữ.
Người mẹ có thể truyền viêm gan C sang con trong khi sinh. Do đó phát hiện viêm gan C là đặc biệt quan trọng ở phụ nữ.
Phụ nữ bị viêm gan C cũng có thể phải đối mặt với các vấn đề khác với. Dưới đây là một số khác biệt chính, cũng như những lựa chọn điều trị cho phụ nữ.
Các triệu chứng của viêm gan C có thể bao gồm mệt mỏi và buồn nôn.
Viêm gan C là một vi-rút có thể lây truyền thông qua tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Một người có thể bị nhiễm vi-rút do dùng chung kim tiêm với người bị viêm gan C.
Một số trường hợp bị nhiễm vi-rút do quan hệ giao hợp không dùng bảo vệ nếu tiếp xúc với máu, bao gồm cả máu kinh nguyệt.
Tuy nhiên, tỷ lệ lây truyền từ hoạt động giao hợp thấp hơn so với việc dùng chung kim tiêm, theo Hội Sản phụ khoa Mỹ (ACOG).
Một trong những khác biệt chính giữa lây truyền ở nam và nữ là phụ nữ có thể truyền vi-rút viêm gan C sang em bé trong khi sinh.
Theo ACOG, khoảng 4% phụ nữ bị viêm gan C truyền bệnh sang con trong khi sinh. Khả năng này tăng lên nếu người mẹ cũng có HIV hoặc có lượng vi-rút viêm gan C cao trong máu.
Trước năm 1992, nguồn máu truyền ở Mỹ chưa có quy định về phát hiện viêm gan C. Hậu quả là, theo ước tính của Dự án Hỗ trợ Viêm gan C, có khoảng 250.000 phụ nữ Mỹ phải truyền máu khi mổ đẻ bị nhiễm virus viêm gan C.
Bất cứ ai từng được truyền máu trước năm 1992 nên hỏi bác sĩ về xét nghiệm viêm gan C.
Phụ nữ không thể truyền viêm gan C sang cho con thông qua việc cho con bú hoặc sang cho người khác qua tiếp xúc như ôm.
Đào thải vi-rút
Video đang HOT
Khi một người đầu tiên bị nhiễm vi-rút viêm gan C, họ sẽ bị nhiễm trùng cấp tính. Nhiễm trùng cấp tính có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng và có thể gây ra triệu chứng với mức độ nặng khác nhau.
Một số người sẽ “đào thải” vi-rút ra khỏi cơ thể và không có thêm các dấu hiệu viêm gan C. Phụ nữ có nhiều khả năng đào thải hết vi-rút hơn.
Tuy các bác sĩ chưa biết rõ lý do, nhưng đó có thể là do nồng độ estrogen cao hơn ở phụ nữ.
Tiến triển
Những hậu quả của viêm gan C nặng, như xơ gan hoặc ung thư gan, có xu hướng tiến triển chậm hơn ở phụ nữ so với nam giới.
Sự tiến triển bệnh cũng có thể phụ thuộc vào các yếu tố như người phụ nữ phát hiện ra bệnh khi nào và có bị đồng nhiễm HIV hay không.
Triệu chứng viêm gan C ở phụ nữ
Viêm gan C hiếm khi biểu hiện triệu chứng cho đến khi bệnh tiến triển muộn hơn. Thông thường, người bệnh có thể không biết mình bị viêm gan C cho đến khi làm xét nghiệm máu vì một tình trạng bệnh nào đó khác và phát hiện ra men gan cao hơn bình thường.
Tuy nhiên, một số triệu chứng của viêm gan C có thể bao gồm:
mệt mỏi
ngứa
yếu cơ
buồn nôn
đau bụng
vàng da vàng mắt
Những triệu chứng này là không đặc hiệu, nghĩa là có nhiều nguyên nhân khác nhau có thể dẫn đến chúng. Điều này làm cho viêm gan C khó chẩn đoán hơn.
Chẩn đoán
Các bác sĩ chẩn đoán viêm gan C bằng xét nghiệm máu. Trước tiên, họ có thể xét nghiệm các kháng thể vi-rút viêm gan C, có thể cho biết liệu một người đã từng nhiễm vi-rút hay chưa, ngay cả khi họ đã sạch vi-rút.
Bác sĩ cũng sẽ xét nghiệm các dấu hiệu hoạt động của vi-rút. Họ có thể lượng vi-rút, tức là có bao nhiêu vi-rút hiện diện trong cơ thể của một người.
Nếu người phụ nữ xét nghiệm dương tính với viêm gan C và có con, bác sĩ thường sẽ khuyên nên xét nghiệm vi-rút cho đứa con khi được ít nhất 18 tháng tuổi. Xét nghiệm trước tuổi này không phải lúc nào cũng cho kết quả chính xác.
Điều trị
Hiện không có cách chữa khỏi viêm gan C, nhưng một số thuốc có thể giúp nhiều người loại bỏ vi-rút.
Ví dụ về các thuốc này bao gồm sofosbuvir hoặc velpatasvir (Epclusa) và ledipasvir hoặc sofosbuvir (Harvoni).
Tuy nhiên, một số týp viêm gan C, chẳng hạn như giai đoạn muộn hoặc một kiểu gen cụ thể, không đáp ứng với những thuốc này và có thể gây tổn thương gan.
Gan là cơ quan chính của cơ thể để đào thải các chất, chẳng hạn như độc tố trong rượu hoặc thuốc mà bạn dùng. Gan phá vỡ các chất này thành những phần nhỏ hơn để cơ thể có thể loại bỏ chúng.
Do đó, các bác sĩ sẽ khuyến bất kỳ ai bị tổn thương gan đều tránh sử dụng rượu, ma túy và thuốc lá. Họ cũng có thể xem xét thuốc mà bạn dùng, bao gồm cả vitamin và thực phẩm chức năng.
Phòng viêm gan C như thế nào?
Có vắc-xin viêm gan A và viêm gan B, nhưng hiện không có vắc-xin viêm gan C.
Do đó, chúng ta cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa khác, như:
không dùng chung kim tiêm hoặc các dụng cụ khác, kể cả thiết bị theo dõi đường huyết, với những người khác
hỏi về kỹ thuật và thực hành vô trùng khi xăm hoặc xỏ lỗ trên cơ thể
tuân thủ các biện pháp phòng ngừa an toàn như vứt bỏ tất cả các vật sắc nhọn đúng cách, đặc biệt là ở các cơ sở chăm sóc sức khỏe
sử dụng hàng rào bảo vệ để ngăn ngừa lây truyền máu-máu trong khi quan hệ giao hợp
hạn chế dùng chung các vật dụng cá nhân tiếp xúc với máu, như dao cạo râu, bàn chải đánh răng, cắt móng tay và bông tai
làm sạch tất cả các vết máu thật cẩn thận bằng hỗn hợp thuốc tẩy và nước, vì ngay cả máu khô có chứa vi-rút viêm gan C cũng có thể lây sang người khác
Tóm lại
Phụ nữ ít có khả năng bị các biến chứng viêm gan C đe dọa tính mạng, nhưng vẫn có thể bị các biến chứng liên quan đến gan. Phụ nữ cũng có thể truyền vi-rút sang con trong khi sinh.
Phòng ngừa và điều trị viêm gan C là rất quan trọng. Nếu một người phụ nữ có các yếu tố nguy cơ nhiễm vi-rút thì nên cân nhắc đi khám bác sĩ để được xét nghiệm.
Cẩm Tú
Theo MNT
Bạn có biết vi rút là gì không? Vì sao chúng gây ra thật lắm bệnh?
Các vi rút có vai trò lớn trong thiên nhiên, có nhiệm vụ kỳ diệu trong sự tiến hóa của muôn loài, lại thường gây phiền nhiễu cho loài người.
Những virus hiếm gặp, thế giới chưa có thuốc điều trị
Vi rút bên bờ sự sống
Người ta mới biết virút vào khoảng giao thời thế kỷ 19 - 20. Virút tiếng Anh là virus, từ gốc Latin là chất độc. Dmitri Ivanovsky khám phá virút năm 1892. Kính hiển vi điện tử xem thấy virút lần đầu tiên năm 1935.
Có hàng triệu týp, chỉ mới có 500 type được mô tả chi tiết. Ở đâu có sự sống ở đó có virút. Virút không phải là vi sinh vật như vi khuẩn và bị để ngoài muôn loài. Virút khác hẳn vi khuẩn, cũng không phải là siêu vi khuẩn. Ở bên bờ sự sống, virút chỉ trở thành "sinh vật" khi chui vào trong một tế bào (gọi là tế bào chủ). Khác nào "gen tặc".
Ở ngoài tế bào, virút là virion, gồm một bộ gen (phân tử DNA hoặc RNA) gói gọn trong lớp áo khoác prôtêin. Nhập vào trong tế bào thì cởi bỏ áo khoác, thả ra bộ gen. Theo lệnh gen tặc, tế bào chủ tổng hợp các chất cần thiết để tạo ra vô số virion. Các virion tung ra khỏi tế bào chủ rồi gây nhiễm tiếp các tế bào khác. Có loại virút gây nhiễm các vi khuẩn được gọi là virút xực vi khuẩn. Có virút thật nhỏ chỉ đo được 20 nanomét (nm), bằng 1/100 vi khuẩn.
Quyền lực thần kỳ, nuôi dưỡng thế giới
Các nhà nghiên cứu bắt đầu làm sáng tỏ công sức lao động tuyệt vời của các virút, phục vụ sự sống muôn loài. Các virút đóng góp lớn lao cho sự sản xuất năng lượng toàn cầu. Curtis Suttle nhà virút học hải dương, tán thưởng: "Các virút (chủ yếu là các virút xực vi khuẩn) là lực đẩy chủ yếu chu trình dinh dưỡng và năng lượng trên hành tinh". "Nếu bạn lấy các virút ra khỏi biển thì mọi vật sẽ ngừng tăng trưởng".
Vi rút rêtrô và sự tiến hóa của loài người
Các virút có thể là nguồn cội của cây sự sống, góp phần vào sự tiến hóa của sinh vật. Đề án giải mã vốn gen người hoàn tất năm 2003 cho thấy 8% vốn gen người có chứa di chỉ của virút rêtrô (mang phân tử RNA), gọi là virút rêtrô nội sinh. Nhà sinh học Heidmann cho rằng nếu không có virút rêtrô nội sinh thì loài có vú không thể có được lá nhau, che chở bào thai có đủ thời gian phát triển, cho não người hình thành một cách tuyệt vời.
Như chiếc đò chở các gen
Virút là con chuột lang của các nhà nghiên cứu sinh học phân tử. Thật là tiện lợi. Các virút có một hệ thống gen giản dị. Tha hồ mà cắt, ráp gen rồi nhét vào các tế bào để tìm hiểu nhiều thứ. Các virút như chiếc đò chở các gen vào các tế bào, xem coi đưa gen lạ vào genôm có hiệu quả gì. Bao nhiêu kỳ vọng cho việc điều trị ung thư và liệu pháp gen.
Các vi rút ác ôn gây bao phiền nhiễu
Virút gây biết bao nhiêu là bệnh. Cảm cúm, trái rạ, lở miệng. Bệnh nặng là đậu mùa, SARS, Ebola, AIDS, ung thư gan, ung thư cổ tử cung. Virút HIV chỉ mới nới tay sát thủ, virút HCV gây viêm gan C chưa có vắcxin, Ebola ầm ập tới rồi đi còn đe dọa trở lại. Nay virút Zika trở thành siêu sao thời thượng.
Nhớ lại những trận dịch do virút
Bệnh đậu mùa trong thế kỷ trước đã giết hại khoảng 300-500 triệu người. Thật thần kỳ, nhờ vắcxin, virút đậu mùa đã bị diệt tận gốc vào năm 1979 (WHO).
Đại dịch cúm Tây Ban Nha xảy ra năm 1918 giết khoảng 50 triệu trên địa cầu.
Cúm heo do virút H1N1 năm 2009 gây xáo trộn toàn cầu. Virút cúm biến hóa vô cùng. Nước Mỹ lộn xộn vì "cúm heo". Khoảng 50% dân Mỹ ngần ngại không muốn tiêm chủng vì e ngại chất lượng vắcxin.
Virút viêm gan HBV và HCV gây ung thư gan. Giữa những năm 1960 Baruch Blumberg phân lập HBV (ban đầu gọi là Australian) nhận giải Nobel Y học năm 1976. Những năm 1980 R.Palmer Beasley xác định mối liên hệ virút - ung thư gan. Những nơi nào có xuất độ cao viêm gan mạn cũng là những nơi có xuất độ ung thư gan cao nhất. Vắcxin ngừa viêm gan B là vắcxin đầu tiên ngừa ung thư.Vắcxin HBV được chuẩn nhận đầu tiên ở Hoa Kỳ năm 1981 nay là một trong các vắcxin được dùng rộng rãi trên thế giới.
HCV (virút RNA) có tên tương tự nhưng khác hẳn HBV (virút DNA), mới được phân lập năm 1989. Vắcxin thì chưa có. Mừng là mới có thuốc điều trị. Cặp đôi HBV-HCV là thủ phạm gây ung thư gan hàng đầu ở nam giới ở nước ta.
Không phải trời kêu, chính là HPV
Thủ phạm gây ung thư cổ tử cung. Harald zur Hausen mới phân lập được virút HPV 16 vào năm 1983, và HPV năm 1984, chia nửa giải Nobel 2008 với hai người tìm ra HIV-1. 70% tất cả ung thư cổ tử cung chứa HPV 16 & 18. Các virút này lây lan qua đường tình dục. Hai gen E6 - E7 gây ung thư nhập vào vốn gen tế bào người, điều động mọi thứ gây ung thư. Đúng là gen tặc.
Vắcxin ngừa HPV. Hai vắcxin Gardasil và Cervarix chỉ có hiệu quả với HPV 16 - 18 ngừa 70% ung thư cổ tử cung. Còn các týp HPV khác gây ung thư cổ tử cung thì các vắcxin này bó tay, để 30% lọt lưới.
Bệnh HIV - AIDS
Theo WHO, toàn cầu có 36,9 triệu người đang mang virút HIV vào cuối năm 2014. Cho đến nay có 78 triệu người mắc bệnh, khoảng 39 triệu người đã chết. Vào tháng 6, 2015 có 15,8 triệu người bệnh được điều trị với thuốc ART (kháng virút rêtrô).
Vi rút rêtrô giống lạ. Năm 1981 những bệnh nhân đầu tiên ở Hoa Kỳ được phát hiện. Năm 1983, Franoise Barré-Sinoussi và Luc Montagnier công bố tìm ra thủ phạm virút HIV-1. Họ nhân nửa giải Nobel Y học 2008.
Hừng đông le lói. HIV thiên biến vạn hóa, thay hình đổi dạng nhanh nhạy, lại ra đòn sát thủ tàn phá đúng các tế bào bảo vệ cơ thể con người. Đầu năm 2015, Bill Gates tỏ ra lạc quan là vắcxin và việc trị khỏi sẽ trở thành hiện thực trong 15 năm nữa. Tiên liệu của nhà từ thiện đại gia Bill Gates có một số cơ sở khoa học, nhưng nhiều thách thức còn ở phía trước không thể xem nhẹ.
Ebola là tên một dòng sông
Bệnh virút Ebola trước kia có tên là sốt xuất huyết Ebola. Ebola là tên một dòng sông, nơi xuất hiện trận dịch ban đầu. Năm 1976, Ebola bùng phát tại các làng mạc ở Trung châu Phi. Peter Piot, mới 27 tuổi tìm ra virút Ebola năm 1976. Năm 2014 Ebola lại bùng phát, tấn công khốc liệt các nước Guinea, Sierra Leone, Liberia, thuộc Tây Phi. Đại dịch đã giết hơn 11.300 người và gây nhiễm khoảng 28.600 người từ năm 2013.
Có tin vui. Tháng 6.2016 WHO công bố, bệnh Ebola đã được dập tắt ở 3 nước Tây Phi Châu. Thử nghiệm lâm sàng dùng vắcxin VSV-EBOV rất hứa hẹn.
Zika, virút thời thượng
Đáng sợ là virút truyền sang người do muỗi Aedes. Đáng lo là nhiễm Zika trong thai kỳ có thể sinh con mắc chứng đầu nhỏ và các khiếm tật về não. Hội chứng thần kinh Guillain Barré, có thể gây tử vong hoặc liệt hoàn toàn. Chưa có vắcxin. Virút mang tên khu rừng Zika, nước Uganda được khám phá năm 1947. Năm 1952 bệnh ở người được phát hiện, rồi bùng phát ở châu Phi nhiệt đới, Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương. Theo tin AFP, (15.06.2016), tại Braxin có 1,5 triệu người nhiễm virút Zika và khoảng 1.300 hài nhi bị chứng đầu nhỏ (đầu và não nhỏ) bất thường kể từ khi dịch Zika bùng phát năm ngoái.
Nỗi lo Olympic. Đầu năm 2016 WHO tuyên bố virút Zika là một Tình Trạng Khẩn cấp Sức khỏe Công cộng Toàn cầu. Vậy mà mới đây tổ chức này lại khẳng định nguy cơ rất thấp virút Zika lan tràn thêm từ Olympic ở Braxin vào tháng 8 này.
Các virút có phải luôn là kẻ thù của chúng ta không? Chỉ mang một số gen ít ỏi, so với bộ gen người, không có bộ não mà thách thức những bộ óc siêu việt của loài người. Con người có lúc gặp đối thủ thật khó chơi. Cuộc chiến cam go luôn tiếp diễn, thắng lợi rồi cũng về phía con người.
Theo infonet.vn
Những cơn đau lưng nào bắt buộc phải đi khám bác sĩ? Hầu hết mọi người đều từng bị đau lưng. Chúng ta thường không thực sự quan tâm đến nó và phần lớn sẽ tự hết sau ít ngày. Tuy nhiên, có những cơn đau lưng không được chủ quan mà nhất thiết phải đi khám bác sĩ. Một số trường hợp bị đau lưng cần phải đến bác sĩ để được chẩn đoán...