Các phương pháp điều trị suy giãn tĩnh mạch
Dùng thuốc, phẫu thuật, mang tất ép y khoa, bổ sung chất xơ và các vitamin C, B, E… giúp điều trị bệnh suy giãn tĩnh mạch hiệu quả.
Suy giãn tĩnh mạch là một bệnh lý mãn tính, ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống, giảm khả năng lao động, có thể gây tàn phế và làm hao tốn tiền bạc của người mắc bệnh. Bệnh có những triệu chứng như đau, nặng chân, vọp bẻ, loét chân, nổi gân xanh… Bệnh diễn tiến theo thời gian, tuổi tác và gặp nhiều khó khăn trong điều trị.
Bệnh sẽ không được chữa khỏi hoàn toàn dù bằng phương pháp phẫu thuật, cắt đốt bằng laser, chích xơ… Tỷ lệ tái phát sau điều trị rất cao, nên bệnh nhân cần hiểu rõ về bệnh, các phương pháp điều trị để cân nhắc lựa chọn cùng với thầy thuốc cách điều trị phù hợp.
Dùng thuốc
Trong dược điển tiêu chuẩn của Mỹ chưa có một loại thuốc Tây nào được chấp thuận cho việc điều trị bệnh suy giãn tĩnh mạch. Hiện ở châu Âu và Mỹ, người bệnh suy giãn tĩnh mạch được cho dùng một số sản phẩm có chứa Horse Chestnut và Rutin, mang lại nhiều hiệu quả và được ưa chuộng.
Hiện nay chiết xuất từ Horse Chestnut được sử dụng phổ biến tại châu Âu để điều trị chứng suy tĩnh mạch mãn tính, trĩ, phù sau phẫu thuật và bôi ngoài da trị các bệnh ngoài da. Tại Mỹ, Horse Chestnut ngày càng được chấp nhận là một liệu pháp hiệu quả điều trị các rối loạn tĩnh mạch và phù nề, dựa trên các công bố trong 2 thập niên qua của nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng trong các tạp chí uy chí, được bình duyệt (Nguồn: Alternative medicine review Volume 14, Number 3 2009).
Rutin chứa flavonoid tốt cho tĩnh mạch. Rutin làm giảm tính thấm mao mạch, giảm nguy cơ hình thành những mao mạch mới, làm tĩnh mạch mạnh lên. Rutin có chứa những chất chống oxy hóa, chống viêm, bảo vệ mạch máu, chống huyết khối. Ở nước ta, Rutin có nhiều trong hoa hòe.
Các thủ thuật, phẫu thuật
Các phương pháp này có một kết quả chung là phá bỏ những tĩnh mạch bị giãn, làm những tĩnh mạch này không còn chức năng đưa máu về tim. Các phương pháp này thường được thực hiện cho vấn đề thẩm mỹ của người bệnh.
Xơ hóa: trong thủ thuật này, bác sĩ làm tắc các tĩnh mạch nhỏ và trung bình bằng cách tạo vết sẹo và không cho máu vào những tĩnh mạch. Trong một vài tuần, những tĩnh mạch giãn mờ dần. Xơ hoá có hiệu quả nếu được thực hiện một cách chính xác. Xơ hoá không cần gây mê và có thể được thực hiện tại văn phòng của bác sĩ.
Dùng Laser: dùng tia laser vào tĩnh mạch giãn, năng lượng từ laser sẽ phá tĩnh mạch và làm không còn thấy tĩnh mạch nổi trên da. Phẫu thuật laser được sử dụng để điều trị tĩnh mạch nhỏ hơn.
Video đang HOT
Microsclerotherapy: được sử dụng để điều trị tĩnh mạch mạng nhện và những tĩnh mạch nhỏ bị giãn. Một lượng nhỏ hóa chất lỏng được tiêm vào tĩnh mạch bằng một cây kim rất nhỏ. Hóa chất làm hóa sẹo lớp lót bên trong tĩnh mạch, làm cho nó đóng kín.
Cắt đốt trị liệu: dùng nhiệt để đóng ra một giãn tĩnh mạch. Bác sĩ làm một vết cắt nhỏ trên da gần giãn tĩnh mạch, sau đó chèn một ống nhỏ gọi là ống thông vào tĩnh mạch. Một thiết bị ở đầu của ống nóng lên bên trong tĩnh mạch và đóng nó đi. Bệnh nhân sẽ tỉnh táo, nhưng bác sĩ sẽ làm tê các khu vực xung quanh tĩnh mạch.
Phẫu thuật bằng nội soi: là phương pháp cắt bỏ tĩnh mạch bằng nội soi. Thường phẫu thuật nội soi tĩnh mạch chỉ được sử dụng trong trường hợp nghiêm trọng khi suy tĩnh mạch gây loét da (lở loét). Sau thủ thuật, bạn thường có thể trở lại hoạt động bình thường trong vòng một vài tuần.
Phẫu thuật tĩnh mạch: thường được thực hiện đối với những tĩnh mạch giãn lớn, nổi ngoằn ngoèo trên da. Bác sĩ sẽ thắt, cắt tĩnh mạch để loại bỏ chúng, người bệnh sẽ được gây mê. Thời gian phục hồi cho phẩu thuật này khoảng 1-4 tuần.
Mang tất ép y khoa
Đây là phương pháp dùng cho người suy giãn tĩnh mạch được nhiều đồng thuận trên thế giới. Khi dùng tất, bệnh nhân cần lưu ý những vấn đề như đo đúng kích thước để chọn kích cỡ đúng; nên cởi ra mỗi 2 giờ sau đó mang lại. Tùy khí hậu và điều kiện làm việc hay sinh hoạt mà bệnh nhân chọn loại tất cho phù hợp (loại gối, đùi, giữa đùi). Cứ 6 tháng, bệnh nhân nên thay một đôi, không mang tất khi ngủ.
Người bị đái tháo đường thường bị tổn thương và tắt những vi mạch, nên khi mang tất ép y khoa sẽ ép một phần những động mạch nhỏ, làm giảm lượng máu nuôi vùng chân (vốn đã kém). Vì vậy những người bị tháo đường không nên dùng tất ép y khoa.
Bổ sung chất xơ và các vitamin C, B, E
Một điều đơn giản và dễ thực hiện đối với người suy giãn tĩnh mạch là bổ sung chất xơ hàng ngày. Khi bạn đi đại tiện khó khăn sẽ tạo một áp lực lớn lên những tĩnh mạch vùng trực tràng và vùng chân, chính điều này gây ra bệnh trĩ và bệnh suy giãn tĩnh mạch. Khi được bổ sung chất xơ hàng ngày, bạn sẽ phòng tránh được hai bệnh khó chịu này. Ngoài ra chất xơ còn làm giảm cholesterol (phòng ngừa bệnh tim mạch), ổn định đường huyết (phòng ngừa bệnh đái tháo đường). Những vitamin C, B, E sẽ làm mạnh các tĩnh mạch khiến nó khó bị giãn.
Thu Ngân
Theo VNE
Cơ chế gây bệnh suy giãn tĩnh mạch ở chân
Bệnh suy giãn tĩnh mạch xảy ra khi các van trong lòng tĩnh mạch hỏng, làm cho máu chảy theo chiều trái ngược với thông thường. Thay vì được bơm từ bàn chân lên tim, máu tĩnh mạch sẽ đi theo chiều ngược lại.
Bác sĩ Lê Thanh Phong, Trưởng đơn vị Phẫu thuật Mạch máu, Bệnh viện ĐH Y Dược TP HCM, cho biết trong cơ thể con người có hai loại mạch máu chính: động mạch và tĩnh mạch (xem hình vẽ dưới đây).
Các đường màu đỏ là động mạch, màu xanh là tĩnh mạch ở chân. Trong đó có các tĩnh mạch sâu phân bố cạnh các động mạch.
- Động mạch giống như một mạng lưới bao gồm các cấu trúc hình ống, từ lớn đến nhỏ, với nhiệm vụ dẫn máu có ôxy và chất dinh dưỡng từ tim trái đến nuôi các cơ quan. Khi mô ở các cơ quan nhận hết chất dinh dưỡng và ôxy thì trả máu "bẩn" lại cho hệ tĩnh mạch để dẫn máu về tim phải.
- Tĩnh mạch cũng như một mạng lưới gồm các cấu trúc hình ống, vận hành theo cơ chế các tĩnh mạch nhỏ ở xa sẽ dẫn máu về các tĩnh mạch lớn hơn, gần tim hơn, sau đó đổ về tim.
Hệ tĩnh mạch chi dưới bao gồm các tĩnh mạch nông (nằm ngay dưới da), tĩnh mạch sâu (trong khoang cơ của chi dưới) và tĩnh mạch xuyên (nối từ hệ tĩnh mạch nông với tĩnh mạch sâu).
Các tĩnh mạch sâu vận chuyển 90% tổng lượng máu về tim, phần còn lại khoảng 10% là do tĩnh mạch nông đảm nhận. Khi các tĩnh mạch nông bị tắc hoặc được cắt bỏ sẽ không ảnh hưởng đến khả năng vận chuyển máu của hệ tĩnh mạch chi dưới. Tương tự, các nhánh tĩnh mạch xuyên nếu hư cũng có thể được phá bỏ vì nó chỉ có nhiệm vụ dẫn máu từ hệ thống nông về hệ thống tĩnh mạch sâu.
Cơ chế gây bệnh suy giãn tĩnh mạch:
Trong lòng tĩnh mạch chi dưới, ở phía dưới nếp bẹn có các van tĩnh mạch. Van được cấu tạo bởi 2 lá van nằm trong lòng tĩnh mạch. Hai lá van này có một đầu dính vào thành tĩnh mạch, phần còn lại nằm tự do trong lòng tĩnh mạch (như ảnh dưới đây).
Cấu tạo của một van tĩnh mạch. Chú thích: a: bờ tự do của lá van, b: mép của lá van, c: phần xoang van, d. phần lá van dính vào thành tĩnh mạch.
Khi bàn chân cử động, cơ co bóp và bơm máu từ chân lên trên. Lúc đó các lá van sẽ mở ra, cho phép dòng máu "bẩn" trở về tim. Khi chân đứng yên, do tác động của trọng lực, dòng máu có khuynh hướng đi ngược từ trên xuống, nhưng vì các van đã đóng lại nên ngăn cản dòng máu chảy ngược xuống dưới. Với phương thức hoạt động như thế, các van tạo nên hệ thống dòng chảy một chiều trong tĩnh mạch như ảnh mô tả dưới đây:
Cơ chế hoạt động của van. Từ trái sang phải: (1): van tĩnh mạch, (2): van mở ra cho dòng máu đi lên trên, (2): sau đó van đóng lại ngăn không cho dòng máu chảy ngược xuống dưới. Ảnh: Ngọc Thể.
Bệnh giãn tĩnh mạch xảy ra khi các van trong lòng tĩnh mạch bị hỏng, làm cho máu chảy theo chiều trái ngược với thông thường. Thay vì được bơm từ bàn chân lên tim, máu "bẩn" sẽ đi theo chiều ngược lại làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch đồng thời kéo giãn thành tĩnh mạch. Khi các tĩnh mạch bị giãn, sẽ làm cho tình trạng hở van ngày càng nặng thêm nên dòng chảy ngược sẽ nhiều hơn.
Ảnh từ trái sang phải: (1) tĩnh mạch bị giãn to, (2) khi hai van mở ra máu vẫn đi về phía trên được, (3) van đóng lại không kín, do đó máu chảy ngược xuống dưới xuyên qua chỗ hở của hai lá van, tạo nên dòng chảy ngược. Ảnh: Ngọc Thể.
Hậu quả là gây nên tình trạng những tĩnh mạch giãn to, ngoằn ngoèo dưới da hoặc viêm ở các mô xung quanh. Biểu hiện thành triệu chứng phù mắt cá chân, viêm da và lở loét ở cẳng chân, chủ yếu là ở vùng gần mắt cá chân như ảnh dưới đây:
Giãn các tĩnh mạch mạng nhện ở dưới mắt cá trong. Đây là giai đoạn 1: Các tĩnh mạch giãn nhỏ hơn 1 mm. Ảnh: TT.
Cách điều trị bệnh suy giãn tĩnh mạch bằng phẫu thuật:
Bệnh suy tĩnh mạch mạn tính biểu hiện ở các khía cạnh: Tổn thương thành tĩnh mạch, van tĩnh mạch và tổn thương da. Đó là kết quả của phản ứng viêm, bắt nguồn từ sự tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch. Các phương pháp điều trị đều nhằm điều chỉnh sự tăng áp lực này. Phẫu thuật đóng một vai trò quan trọng trong việc loại bỏ dòng chảy ngược - nguyên nhân gây tăng áp lực trong tĩnh mạch.
Có nhiều phương pháp để loại bỏ dòng chảy ngược ở các tĩnh mạch nông như phẫu thuật, chích xơ, đốt bằng sóng cao tần, đốt laser nội mạch. Các phẫu này được chứng minh hiệu quả và an toàn, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân. Bên cạnh đó, các phương pháp điều trị khác cũng đóng một vai trò quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả điều trị và ngăn ngừa bệnh tái phát.
Riêng đối với suy tĩnh mạch sâu, đang có hai luồng quan điểm: Một nhóm bác sĩ cho rằng nguyên nhân bệnh là do lá van tĩnh mạch có vấn đề, làm cho van đóng không kín nên không ngăn được dòng máu chảy ngược. Vì thế cần tập trung sửa chữa van. Nhóm thứ hai cho rằng thành tĩnh mạch nâng đỡ van bị giãn làm cho van không thể đóng kín nên dòng máu chảy ngược xuất hiện. Vì thế cần làm vững thành tĩnh mạch bằng phẫu thuật, hy vọng các lá van có thể đóng kín. Các phẫu thuật này thường rất khó, kết quả ngắn hạn và trung hạn tốt nhưng về dài hạn không như mong muốn nên chỉ áp dụng cho những bệnh nhân bị loét chân do suy tĩnh mạch sâu mà điều trị bằng các phương pháp khác không khỏi.
Theo VNE
Đừng để mang thai xong... mang bệnh Nhiều bệnh lý xuất hiện trong thai kỳ có thể trở thành bệnh mãn tính nếu không được can thiệp kịp thời. Tình trạng thai nghén với sự thay đổi đa dạng về mặt cơ thể có thể làm phát sinh nhiều bệnh lý mang tính tạm thời như đái tháo đường thai kỳ, cao huyết áp thai kỳ, suy giãn tĩnh mạch,...