Các phương pháp điều trị phình động mạch chủ
Mục tiêu của điều trị phình động mạch chủ là giúp động mạch chủ không bị vỡ. Phương pháp điều trị phụ thuộc vào kích thước của khối phình và quá trình phát triển bệnh.
Bệnh nhân cần được theo dõi định kỳ, thường xuyên.
Điều trị nội khoa phình động mạch chủ
Nếu khối phình động mạch chủ nhẹ, nhỏ hơn 5cm và không có biểu hiện triệu chứng bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định điều trị nội khoa bằng thuốc chẹn beta và thuốc chẹn kênh canxi. Mục đích dùng thuốc là hạ huyết áp và làm giãn mạch máu, nhờ đó làm giảm nguy cơ vỡ khối phình.
- Thuốc chẹn beta: Là một trong những thuốc được sử dụng khá phổ biến trong điều trị bệnh tim mạch. Đây là nhóm thuốc được bác sĩ kê đơn dựa vào tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Một số thuốc chẹn beta phổ biến như: Acebutolol, atenolol, metoprolol, bisoprolol, propranolol…
Nhóm thuốc chẹn beta có tác dụng làm chậm nhịp tim, giãn mạch máu, giảm huyết áp, co thắt phế quản… Tùy theo vị trí tác động, thuốc chẹn beta sẽ có tác dụng tương ứng.
Thuốc chống chỉ định với các trường hợp:
Người bệnh hen suyễn.
Người bệnh suy tim sung huyết mất bù.
Người có nhịp tim chậm, với khoảng nhịp dưới 50 lần/phút.
Bệnh nhân mắc hội chứng Raynaud và một số tổn thương mạch máu ngoại vi khác.
Bệnh nhân suy gan với triệu chứng tăng bilirubin huyết, cổ trướng nhiều, bệnh lý não do gan.
Chống chỉ định phối hợp với thuốc amiodaron do nguy cơ rối loạn nhịp nặng.
Chống chỉ định phối hợp với thuốc ức chế monoamin oxydase (nhóm iMAO);
Phụ nữ mang thai do chưa được kiểm chứng mức độ an toàn cho thai nhi.
Phụ nữ cho con bú do khả năng thuốc vào sữa mẹ.
Thuốc chẹn beta được chỉ định rất phổ biến trong điều trị bệnh tim mạch, đặc biệt là tăng huyết áp. Tuy nhiên, tùy theo cơ chế tác động của từng phân nhóm mà bác sĩ sẽ phối hợp thuốc một cách phù hợp để kê đơn cho bệnh nhân.
Bệnh nhân cần đi khám và dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.
- Thuốc chẹn kênh canxi: Là thuốc được áp dụng trong điều trị bệnh lý tim mạch từ lâu. Thuốc có tác động trên cả động mạch và cơ tim. Nhưng tác dụng trên động mạch được cho là mạnh hơn trên tim. Thuốc có tác dụng gây giãn mạch nhanh và mạnh, dẫn đến huyết áp giảm nhanh, phản xạ làm tăng nhịp tim, không có lợi cho những bệnh nhân bị thiếu máu cơ tim.
Video đang HOT
Thuốc chẹn kênh canxi được chia thành 3 nhóm, nhưng thường dùng là nhóm dihydropyridine, có tác động chủ yếu ở động mạch. Các thuốc cơ bản trong nhóm này gồm: Amlodipine, felodipine, isradipine, nicardipine, nifedipine, nimodipine…
Đối với động mạch, thuốc chẹn kênh canxi làm giảm tính co của cơ trơn, giảm sức cản thành mạch, từ đó làm giảm huyết áp và chống co thắt động mạch.
Thuốc có tác dụng phụ điển hình là:
Đau đầu, chóng mặt.
Buồn nôn, táo bón, ợ nóng.
Dị ứng, nổi mẩn da, đỏ bừng mặt.
Sưng chân.
Mệt mỏi.
Trong một số trường hợp, thuốc chẹn kênh canxi còn có nguy cơ làm giảm lượng đường trong máu của bệnh nhân. Tác dụng phụ kéo dài sẽ gây tổn hại đến sức khỏe.
Thuốc chẹn kênh canxi có thể tương tác với một số thuốc hoặc thực phẩm chức năng. Trường hợp bệnh nhân được chỉ định dùng thuốc, cần thông báo cho bác sĩ biết về các loại thuốc đang uống, kể cả thực phẩm chức năng hoặc vitamin, thuốc bổ, thảo dược…
Không ăn bưởi khi đang dùng thuốc chẹn kênh canxi. Bởi bưởi có thể làm ảnh hưởng đến nồng độ thuốc trong cơ thể.
Sau khi dùng thuốc, bệnh nhân cần tái khám đúng theo lịch hẹn của bác sĩ. Nếu động mạch chủ tiếp tục phồng lên, bác sĩ sẽ điều chỉnh thời gian theo dõi định kỳ, đồng thời tiếp tục điều trị các bệnh liên quan trực tiếp đến phình động mạch chủ như tăng huyết áp.
Cần thực hiện các xét nghiệm hình ảnh định kỳ và siêu âm ổ bụng 6 tháng một lần sau khi được chẩn đoán bệnh. Các xét nghiệm này sẽ giúp bác sĩ theo dõi tình trạng bệnh toàn diện hơn.
Nếu tình trạng phình động mạch chủ tiếp tục phát triển, đồng thời xuất hiện các triệu chứng như đau vùng ngực, lưng hoặc hàm… bác sĩ phải tiến hành phẫu thuật để loại bỏ.
Phẫu thuật điều trị phình động mạch chủ
Có 2 phương pháp phẫu thuật phổ biến:
Phẫu thuật mở: Với trường hợp này, bác sĩ sẽ tiến hành mở ngực hoặc bụng (tùy vị trí phình động mạch), loại bỏ khối phình trong động mạch chủ và thay mạch đoạn động mạch chủ bằng đoạn mạch nhân tạo tại chỗ để sửa chữa động mạch. Chỉ định trong các trường hợp:
Phình động mạch chủ bụng đường kính trên 2.5 lần đường kính cổ trên hoặc trên 5cm.
Phình động mạch chủ bụng có các biến chứng như nhiễm trùng, dọa vỡ, vỡ, tắc mạch chi.
Thiếu máu chi từ giai đoạn II nặng trở lên trong hội chứng Leriche.
Kỹ thuật này không được thực hiện khi thể trạng người bệnh không cho phép; bệnh nhân quá cao tuổi, yếu hoặc mắc nhiều bệnh nội khoa phối hợp nặng.
Trong quá trình phẫu thuật, có thể gặp các rủi ro, nên trước khi phẫu thuật, người bệnh và gia đình sẽ được nhân viên y tế giải thích rõ về tình trạng bệnh, mục đích của phẫu thuật, những tai biến, di chứng có thể gặp…
Sau khi thực hiện đầy đủ các bước trước khi phẫu thuật, cùng thể trạng bệnh nhân cho phép, bác sĩ sẽ tiến hành thực hiện ca phẫu thuật.
Với phương pháp này, bác sĩ mở dọc động mạch chủ bụng đoạn khối phình, khâu cầm máu các động mạch đốt sống. Tùy trường hợp sẽ thay đoạn động mạch bị tổn thương bằng mạch nhân tạo đoạn thẳng hoặc chữ Y. Sau đó tiến hành khâu nối các mạch máu; lấy bỏ các mảng xơ vữa tại miệng nối; phục hồi lưu thông cho động mạch mạc treo tràng. Sau khi hoàn thành các bước thay đoạn mạch nhân tạo, bác sĩ tiến hành khâu lại áo của khối phình mạch để che đoạn mạch nhân tạo…
Các biến chứng có thể gặp sau phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ bụng như:
Chảy máu: Là một biến chứng thường gặp. Trường hợp có rối loạn huyết động, khối tụ máu lớn bệnh nhân cần được mổ lại cầm máu cấp cứu.
Tắc mạch sau mổ: Do không xử trí hết tổn thương; do sử dụng thuốc chống đông không hợp lý hoặc kỹ thuật khâu phục hồi mạch không tốt. Tình huống này cũng cần phẫu thuật lại để phục hồi lưu thông mạch cho bệnh nhân.
Nhiễm trùng: Có thể nhiễm trùng tại chỗ hoặc nhiễm trùng toàn thân. Mức độ từ nhẹ đến nặng. Cách xử trí bao gồm cắt chỉ cách quãng, thắt mạch và bắc cầu ngoài giải phẫu, tiến hành mổ lại…
Thiếu máu ruột: Do ca mổ ảnh hưởng đến động mạch mạc treo tràng dưới và động mạch chậu trong hai bên. Trường hợp bị viêm phúc mạc do hoại tử ruột, cần mổ lại cắt ruột.
Thiếu máu tủy: Do phẫu thuật tắt các động mạch đốt sống, xử trí bằng cách điều trị phục hồi chức năng.
Hình ảnh phình động mạch chủ.
Phẫu thuật nội soi đặt stent graft: Là thủ thuật xâm lấn tối thiểu nhằm khắc phục chứng phình động mạch chủ. Với kỹ thuật này, bác sĩ dùng một ống thông để đưa stent vào vị trí phình động mạch, loại trừ khối phình và giúp ổn định dòng chảy trong lòng mạch. Bác sĩ sẽ chỉ định can thiệp stent graft với các trường hợp:
Phình động mạch chủ ngực có đường kính trên 5.5cm (nam) và trên 5.0cm (nữ). Hoặc nút phình tiến triển nhanh trên 5mm trong vòng 1 năm và/hoặc có biến chứng tách thành động mạch chủ.
Phình động mạch chủ bụng dưới động mạch thận đường kính trên 5,5 mm hoặc tiến triển nhanh trên 5 mm/năm, hoặc có biến chứng gây tách thành, dọa vỡ…
Giả phình động mạch chủ sau chấn thương hay do nguyên nhân nhiễm khuẩn…
Để tiến hành phương pháp can thiệp này, bệnh nhân cần phải chụp cắt lớp vi tính hệ thống động mạch chủ ngực và bụng để đánh giá tổn thương và giúp bác sĩ đưa ra chỉ định và lập kế hoạch can thiệp phù hợp. Ngoài ra, bệnh nhân còn được khám, xét nghiệm để đánh giá tổn thương động mạch cũng như các bệnh lý kèm theo
Khi tiến hành thủ thuật, bệnh nhân không cần phải gây mê mà chỉ cần gây tê tại chỗ tại vùng bẹn, nơi đâm kim chọc mạch. Stent graft được đưa vào đúng vị trí tổn thương dưới hướng dẫn của màn hình tăng sáng. Tùy thuộc vào hình thái và kích thước đoạn mạch bị tổn thương, có thể đặt 1, 2 hoặc 3 mảnh graft;
Thời gian tiến hành can thiệp là khoảng từ 1 – 3 giờ. Sau can thiệp, bệnh nhân lưu viện để theo dõi các biến chứng sớm thủ thuật trung bình 2 đến 3 ngày.
Sau khi ra viện, bệnh nhân vẫn cần tái khám định kỳ để được theo dõi, kiểm tra chắc chắn vị trí stent trong động mạch chủ cũng như không phát sinh thêm tổn thương mới.
So với phương pháp mổ mở truyền thống, kỹ thuật đặt stent graft đem lại nhiều ưu điểm như: Rút ngắn thời gian hồi phục và nằm viện; giảm biến chứng trong và sau can thiệp; giảm nguy cơ nhiễm trùng cũng như nguy cơ tử vong.
Thầy thuốc tim mạch Việt Nam phối hợp cứu người bệnh trong gang tấc
Các bác sĩ Viện Tim mạch Việt Nam vừa cứu sống một bệnh nhân 77 tuổi bị phình động mạch chủ vỡ - tình trạng tối cấp cứu và nguy cơ tử vong gần như khó tránh khỏi nếu không được can thiệp kịp thời.
Các bác sĩ Viện Tim mạch Việt Nam thực hiện can thiệp cho bệnh nhân. (Ảnh: PV/Vietnam )
Chiều 6/5, Viện Tim mạch Việt Nam thông tin, các bác sĩ của Viện vừa can thiệp cấp cứu, cứu sống một bệnh nhân 77 tuổi bị phình động mạch chủ bị vỡ. Đây là tình trạng tối cấp cứu và nguy cơ tử vong gần như khó tránh khỏi nếu không được can thiệp kịp thời.
Bệnh nhân Q.T.T (nam 77 tuổi) tiền sử tăng huyết áp, đặt stent động mạch vành cách 8 năm nhập viện trong tình trạng đau bụng dữ dội.
Qua thăm khám, các bác sĩ tại bệnh viện tuyến trước phát hiện bệnh nhân có khối đập vùng bụng và chỉ định chụp phim cắt lớp vi tính, từ đó chẩn đoán có khối phình động mạch chủ bị vỡ gây tụ máu sau phúc mạc. Do đây là một ca bệnh khó và phức tạp nên các bác sĩ đã nhanh chóng hội chẩn trực tuyến với các chuyên gia Viện Tim Mạch Việt Nam (Bệnh viện Bạch Mai). Sau đó, các chuyên gia xác định tình trạng bệnh cần được xử lý cấp cứu.
Bệnh nhân được phối hợp chuyển thẳng đến phòng Tim mạch can thiệp Viện Tim Mạch Việt Nam đã được chuẩn bị trước. Trong thời gian hội chẩn và vận chuyển, các chuyên gia đã tính toán và chuẩn bị sẵn các trang thiết bị phù hợp và chuẩn bị nhân lực phòng can thiệp sẵn sàng để thực hiện thủ thuật cấp cứu.
Xác định đây là một trường hợp nặng, trên hình ảnh chụp cắt lớp khối phình đã vỡ ra khoang sau của ổ bụng, nguy cơ đe dọa đến tính mạng người bệnh, các bác sĩ tại Viện Tim Mạch Việt Nam đã tiến hành khởi động "Đội nhóm Tim mạch - Heart team" gồm: Bác sĩ phẫu thuật tim mạch, bác sĩ can thiệp tim mạch, bác sĩ hồi sức cùng thống nhất đưa ra chiến lược phù hợp nhất đối với trường hợp cụ thể này.
Với sự phối hợp nhịp nhàng và hết sức kịp thời của "Đội nhóm Tim mạch" cũng như tiên lượng chính xác diễn biến của người bệnh, các bác sĩ đã hàn gắn được đoạn động mạch chủ bị vỡ bằng hệ thống stent graft, thành công giúp bệnh nhân qua cơn nguy kịch.
Giáo sư Phạm Mạnh Hùng - Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam, người trực tiếp chỉ đạo quá trình can thiệp cho biết đây là kỹ thuật xâm lấn tối thiểu, các bác sĩ đã đưa hệ thống Stent graft đi qua động mạch đùi bệnh nhân để kết nối và lót ở bên trong thành mạch giúp bảo vệ động mạch chủ khỏi áp lực của dòng máu và bảo vệ động mạch chủ khỏi vỡ.
Điều đặc biệt là các bác sĩ đã sáng kiến sử dụng một quả bóng đưa lên đoạn trên của động mạch chủ ngực trước chỗ phình vỡ để bơm bóng căng lên làm hạn chế dòng máu chảy xuống chỗ vỡ và giảm áp lực giảm tối đa chảy máu qua chỗ vỡ và giúp thao tác đặt stent graft an toàn hơn.
Sau khi được can thiệp, bệnh nhân Q.T.T được chuyển sang điều trị tại khoa Cấp cứu và hồi sức Tim mạch theo dõi sát. Kết quả chụp lại phim cắt lớp vi tính động mạch chủ cho thấy Stent graft áp thành tốt, hàn gắn giúp ngăn không cho áp lực dòng máu vào khối phình tạo thuận cho huyết khối toàn bộ khối phình động mạch chủ bụng giúp bảo vệ thành động mạch chủ bụng.
Giáo sư Phạm Mạnh Hùng phân tích, phình động mạch chủ bụng vỡ là một tình trạng tối cấp cứu, nguy cơ tử vong đặc biệt cao, cần được phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Nếu không được can thiệp hoặc phẫu thuật cấp cứu kịp thời thì hầu như bệnh nhân không có cơ hội sống sót. Tuy phẫu thuật trước đây là biện pháp kinh điển để điều trị người bệnh, nhưng nguy cơ tử vong vẫn còn rất cao, nhất là đối với bệnh nhân lớn tuổi có nhiều bệnh nền đi kèm.
Các chuyên gia đã tính toán và chuẩn bị sẵn các trang thiết bị phù hợp và chuẩn bị nhân lực phòng can thiệp sẵn sàng để thực hiện thủ thuật cấp cứu. (Ảnh: PV/Vietnam )
Can thiệp động mạch chủ bụng với đường vào từ động mạch đùi rất nhỏ, ít xâm lấn nên bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, có thể đi lại nhẹ nhàng ngay trong ngày đầu sau can thiệp. Bệnh nhận hồi phục hoàn toàn và xuất viện sau 3 ngày theo dõi và điều trị.
Qua trường hợp của bệnh nhân Q.T.T, các bác sĩ khuyến cáo người dân có các bệnh lý tim mạch nền nên thường xuyên theo dõi, kiểm tra sức khỏe.
Trong trường hợp có triệu chứng cần đi khám để được chẩn đoán và xử trí kịp thời, tránh bỏ lỡ thời gian vàng để cứu sống người bệnh cũng như làm giảm các biến chứng cho người bệnh.
Viện trưởng Phạm Mạnh Hùng cho biết tỷ lệ bệnh nhân bệnh lý động mạch chủ được điều trị tại Viện tim mạch ngày càng gia tăng và đặt biệt có rất nhiều bệnh nhân vào viện trong tình trạng vỡ, dọa vỡ cần được xử lý phẫu thuật hoặc can thiệp cấp cứu ngay lập tức.
Những năm gần đây số bệnh nhân được áp dụng kỹ thuật can thiệp nội mạch điều trị cho bệnh nhân bệnh lý động mạch chủ tại Viện Tim mạch khoảng hơn 200 ca trong đó cấp cứu phình động mạch chủ bụng cần thực hiện can thiệp cấp cứu ngay lập tức khoảng 20-30 ca mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh đặc biệt mang lại sự sống cho rất nhiều bệnh nhân phình động mạch chủ bụng vỡ vào viện trong tình trạng nguy kịch, sốc mất máu./.
Phình động mạch chủ cần chú ý gì trong chế độ ăn? Mặc dù khó tránh được tất cả các yếu tố nguy cơ của chứng phình động mạch chủ nhưng việc ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ và tránh một số tác nhân có hại sẽ giúp ích rất nhiều trong việc ngăn ngừa chứng phình động mạch chủ. 1. Tầm quan trọng của chế độ ăn với người...