Các loại giang thuyền được Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam
Được hoán cải từ tàu đổ bộ LCM-6, những biến thể tác chiến đường sông ( giang thuyền) có nhiệm vụ vận chuyển và chiến đấu trên sông như các đơn vị thiết giáp hạng nặng trên bộ.
Năm 1966, bộ chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV – The US Military Assistance Command, Vietnam) đã có yêu cầu về một loại tàu tác chiến ở địa bàn đồng bằng sông Cửu Long.
Do dự kiến được các trận đánh sẽ diễn ra ở cự ly ngắn nên các tàu thuyền phải được bọc thép để tăng khả năng sống sót. Vì yêu cầu thời gian cũng như đồng bộ hóa tối ưu nên mẫu tàu đổ bộ LCM-6 nổi tiếng đã được chọn làm nền tảng phát triển các biến thể này.
Tàu đổ bộ LCM-6.
Do thời gian gấp rút, các kỹ sư của Công ty FMC đã hoàn thành công việc thiết kế chỉ sau 90 ngày, việc hoán cải được giao cho xưởng đóng tàu ở California thực hiện.
Nhằm thực hiện yêu cầu tác chiến của đơn vị đổ bộ, bao gồm các nhóm chỉ huy, quét mìn, hộ tống, yểm trợ hỏa lực và nhóm vận tải, thông tin nên các tàu LCM-6 sửa đổi có một số phiên bản thường thấy sau đây:
Phiên bản chở quân ATC thông thường.
Phiên bản chở quân, cứu thương (gọi là các ATC – Armoured Troop Carriers) được bọc giáp nhẹ. Đây là biến thể chiếm số lượng lớn nhất. Vũ khí tiêu chuẩn của ATC gồm 4 súng máy Browning M1919, 2 pháo Mark 16 20 mm và 1 súng phóng lựu liên thanh Mark 18 hoặc Mark 19.
Phiên bản cứu thương với sàn đáp trực thăng.
Ngoài ra, một số phiên bản làm nhiệm vụ cứu thương được trang bị sàn đáp trực thăng, cho phép các loại trực thăng như UH-1 hạ cánh.
Phiên bản Monitor với pháo 105 mm (H)
Phiên bản chiến hạm xung kích nhỏ (Monitor) được trang bị hỏa lực mạnh cho nhiệm vụ tuần tiễu truy quét ven sông như những cỗ xe tăng nổi, do đó nó còn được gọi là “Giang chiến hạm” hoặc “Xung kích đỉnh”.
Biến thể đầu tiên (Monitor Mark IV) được trang bị tháp pháo Mark 52 với pháo 40 mm Bofors cùng 1 khẩu cối 81 mm, bổ sung 1 đại liên M2 50 cal, 1 tháp pháo Mark 51 với pháo Mark 16 20 mm và 2 tháp pháo Mark 50 với súng đại liên M2 50 cal .
Ngoài ra, tàu còn có thể trang bị thêm tùy chọn như súng phóng lựu liên thanh Mark 19, cối cá nhân M79 hay súng đại liên, trung liên M2, M1919, M60… Monitor được bọc giáp dày, lắp đặt giáp lồng gà chống đạn nổ lõm.
Video đang HOT
Hệ thống thông tin, điện tử của tàu gồm 2 máy AN/VRC-46, 1 máy AN/PCR-25 cùng radar Pathfinder của Raytheon.
Phiên bản Monitor (F) “Zippo”.
Qua thử nghiệm thực tế ở chiến trường Việt Nam, các phiên bản đầu tiên có hỏa lực không đáp ứng được yêu cầu đề ra do độ tản mát lớn.
Từ đó thế hệ Monitor thứ 2 (Monitor Mark V) đã thay thế pháo 40 mm bằng pháo M49 105 mm, loại bỏ cối 81 mm. Các tháp pháo Mark 50 và Mark 51 được thay thế bởi tháp pháo Mark 48 với pháo Mark 16 20 mm.
Phiên bản này được gia cố giáp, giáp lồng gà kéo dài quanh các tháp pháo chính ra cả thân tàu. Phiên bản này có tên gọi Monitor (H).
Phiên bản chỉ huy CCB.
Phiên bản chỉ huy CCB (Command and Communications Boat) đã lược bỏ vũ khí bằng các thiết bị kiểm soát, liên lạc, nó thường được gọi với biệt danh “Charlie”. Ngoài ra còn có một số phiên bản hoán cải cho nhiệm vụ hậu cần, tiếp liệu.
Các biến thể chính có chiều dài 17,2 – 18,5 mét; rộng 4,3 – 5,3 mét; trang bị 2 động cơ Gray Marine 64HN9 Diesels 220 mã lực cho tốc độ tối đa 8,5 hải lý/h; thủy thủ đoàn lên tới 11 người.
Trong chiến tranh, các giang thuyền hoán cải từ tàu đổ bộ LCM-6 được trang bị rộng rãi cho lực lượng tác chiến đường sông của quân Mỹ cũng như Việt Nam Cộng Hòa nhằm tấn công, truy quét các đơn vị Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên cũng như những vũ khí hiện đại khác, các thiết giáp hạm sông Mekong Monitor dù hỏa lực có mạnh tới đâu cũng không thể chiến thắng được tinh thần và trí tuệ của con người Việt Nam.
Theo Tri Thức
Điều gì xảy ra nếu Mỹ dùng vũ khí hạt nhân trong Chiến tranh Việt Nam?
Kết quả nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học JASON cho thấy, việc sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam có thể khiến Mỹ đối mặt với thảm họa.
"[Vũ khí hạt nhân] dường như đã trở thành một cách biểu thị thái độ mà khi cần, Mỹ có thể sử dụng để đe dọa bất kì đối thủ nào. Quả bom hạt nhân chính là biểu tượng đảm bảo an ninh và sức mạnh của Mỹ."
Đó là nhận xét của Phó giáo sư - Tiến sĩ Alex Wellerstein, nhà sử học chuyên nghiên cứu về hạt nhân thuộc Viện Công nghệ Stevens, thành phố Hoboken, bang New Jersey (Mỹ).
Dù vậy, ông Wellerstein cũng phải thừa nhận, cuộc chiến tại Việt Nam đã chứng minh rằng sở hữu vũ khí hạt nhân không phải là "điều kiện đủ" để đảm bảo chiến thắng. Ông cũng đặt ra câu hỏi: Liệu đánh bom hạt nhân tại Việt Nam có giúp ích được gì cho Mỹ?
Nghiên cứu của JASON
Đầu năm 1967, hội đồng cố vấn JASON đã trình lên chính phủ một bản báo cáo dài 60 trang mang tựa đề "Vũ khí hạt nhân chiến lược tại Đông Nam Á", với nội dung xoay quanh việc Mỹ có thể làm gì với bom hạt nhân.
JASON là một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu độc lập do Lầu Năm Góc tài trợ kinh phí, với nhiệm vụ cố vấn chính phủ Mỹ về mặt khoa học kĩ thuật trong các vấn đề quân sự nhạy cảm. JASON chính thức đi vào hoạt động từ năm 1960, với khoảng 30-60 thành viên.
Tác giả bản báo cáo - Freeman Dyson, Robert Gomer, Steven Weinberg, và Courtney Wright - cho biết họ không thực hiện nghiên cứu này theo yêu cầu của chính phủ, mà xuất phát từ chính những thôi thúc của bản thân.
Nhà hóa học Robert Gomer thuộc Đại học Chicago và cũng là một trong các tác giả của bản báo cáo kể lại, trong buổi tiệc cùng các thành viên JASON năm 1966, một cựu chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng thân cận với Tổng thống Lyndon Johnson từng nói rằng:
"Thỉnh thoảng ném một quả bom hạt nhân có khi lại hay, như thế khiến đối phương không bắt thóp được mình".
Tuy chính Gomer cũng thừa nhận đây có lẽ chỉ là một phát biểu có phần bâng quơ, nhưng nó đủ để khiến ông cảm thấy "sởn gai ốc" trước khả năng Mỹ có thể sử dụng hạt nhân tại Việt Nam.
Với những hiểu biết của mình về khoa học kĩ thuât, Gomer cùng các cộng sự tập trung vào các vấn đề mang tính số liệu và chiến lược, thay vì xoáy sâu vào tâm lý con người hay các suy tính chính trị.
Ngay từ đầu, nhóm các nhà khoa học JASON đã đặt mục tiêu chứng minh sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam sẽ là một nước đi sai lầm. Nhưng theo ông Wellerstein, quan điểm không trung lập của JASON không có nghĩa là nghiên cứu của họ mất đi tính khách quan.
Nội dung nghiên cứu
Về cơ bản, nghiên cứu này dựa theo những luận điểm vô cùng đơn giản. Trong đó điểm mấu chốt là nếu Mỹ có đơn phương sử dụng vũ khí hạt nhân, thì điều này cũng không đem lại kết quả gì thực sự hữu ích.
Theo nhóm nghiên cứu JASON, vũ khí hạt nhân sẽ đem lại hiệu quả cao nhất khi đánh vào một đạo quân đông đúc. Vấn đề ở đây là quân đội Việt Nam thường hoạt động theo nhóm nhỏ, dưới sự "che chở" của núi rừng, chứ hiếm khi đi tập trung.
Trên lý thuyết, Mỹ có thể dùng bom hạt nhân để phá hủy căn cứ quân đội Việt Nam, nhưng để làm được điều đó thì trước hết phải xác định được chính xác vị trí căn cứ, một việc không hề dễ dàng và tốn nhiều thời gian.
Đầu đạn hạt nhân B-61 của quân đội Mỹ. Ảnh: Google Images
Tóm lại, JASON cho rằng, trong cuộc chiến tại Việt Nam, việc sử dụng vũ khí hạt nhân nhìn chung không thực sự đem lại nhiều lợi thế cho Mỹ nếu so sánh với các hỏa lực thông dụng khác.
Ngoài ra, "tác dụng phụ" của hạt nhân là bụi phóng xạ thì lại quá khó phán đoán và kiểm soát.
Về mặt số liệu, bản báo cáo của JASON đã chỉ ra một vài con số:
- Tính trung bình, một đầu đạn hạt nhân có sức công phá bằng 12 đầu đạn thông thường.
- Nếu Mỹ muốn áp dụng chiến dịch Sấm Rền (Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất - PV) theo kiểu hạt nhân, sẽ phải dùng đến 3.000 đầu đạn/năm.
- Trong điều kiện lý tưởng nhất, đó là khi sử dụng hạt nhân để đối phó với một đại quân đã xác định được vị trí, thì số thương vong ước tính cho mỗi đầu đạn cũng chỉ là 100. Con số này sẽ còn thấp hơn nhiều khi áp dụng tại chiến trường Việt Nam vì những lý do đã nói ở trên.
Gomer và các cộng sự cũng chỉ ra một vài mục tiêu tại Việt Nam mà trong đó sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ đem lại hiệu quả cao. Cụ thể, cầu đường, trụ sở, và các hệ thống đường hầm là những mục tiêu lý tưởng của bom hạt nhân.
Tuy nhiên, họ cho rằng, những công dụng này là quá nhỏ nhặt nếu so với công sức và chi phí cần bỏ ra để sử dụng.
Mỹ còn thiệt hơn
Lý do lớn nhất mà nhóm nghiên cứu này chỉ ra để phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân không phải vì lo ngại sẽ không đem lại hiệu quả cao, mà là những thiệt hại chính quân đội Mỹ phải hứng chịu nếu bom hạt nhân "đáp" xuống miền Bắc.
Họ tính toán rằng nếu 100 đầu đạn 10-KT có thể được vận chuyển từ căn cứ tới cả 70 mục tiêu trong một cuộc không kích đồng loạt, khả năng chiến đấu của quân đội Mỹ tại Việt Nam cũng gần như "biến mất" hoàn toàn.
JASON chỉ ra rằng, kể từ Thế chiến thứ Hai, Mỹ luôn tránh không phạm vào "điều cấm kị" (taboo), đó là khai màn một cuộc chiến hạt nhân, vì họ thừa hiểu rằng bản thân mình sở hữu những mục tiêu lý tưởng cho thứ vũ khí hủy diệt này.
Đại quân số lượng lớn, các căn cứ quy mô cố định, các thành phố - đô thị lớn bên bờ biển, một nền kinh tế phụ thuộc vào truyền thông, giao thông và cơ sở hạ tầng.
Căn cứ quân sự Đảo Tuần Duyên của Mỹ tại California. Ảnh: WikiMedia
Những đứa "con cưng" này là lý do tại sao Mỹ luôn tránh không động tới hàng chục nghìn đầu đạn hạt nhân nước này đã sản xuất được từ sau thảm họa Hiroshima và Nagasaki, do lo ngại những thiệt hại phải gánh chịu nếu bị trả đũa.
Kết luận
Sau 60 trang phân tích, JASON đi đến kết luận, sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam, dù dưới bất kì hình thức nào, cũng sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đối với Mỹ.
Thứ nhất, nhóm nghiên cứu này khẳng định, việc đơn phương sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam sẽ không đem lại cho Mỹ một lợi thế mang tính quyết định về mặt quân sự.
Thứ hai, nguy cơ bị đáp trả hạt nhân chắc chắn sẽ dẫn tới thiệt hại nặng nề hơn rất nhiều cho phía Mỹ.
Nói cách khác, lợi thế mà bom hạt nhân đem lại nếu sử dụng tại Việt Nam là không đủ để đảm bảo chấm dứt được chiến tranh, và cái giá Mỹ phải gánh chịu nếu bị trả đũa sẽ đắt hơn rất nhiều.
Tóm lại, nếu so sánh thiệt hơn, nhóm nghiên cứu JASON đã chứng minh được rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam "chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả đáng kể, và nhiều khả năng sẽ là một bước đi mang đến thảm họa" cho nước Mỹ.
Theo Tri Thức
Việt Nam - ngôi nhà thứ 2 của nhiều cựu binh Mỹ Sau chiến tranh, nhiều cựu binh sĩ đã quay trở lại Việt Nam, chọn Đà Nẵng là nơi sinh sống với mong muốn trợ giúp người dân địa phương khắc phục các di chứng chiến tranh. Họ yêu mến Việt Nam như ngôi nhà thứ 2, và cũng nhận được tình cảm của người dân địa phương. Cựu chiến binh Mỹ Chuck Palazzo...