Các “đại gia” khó khăn hay “né” thuế
Theo con số chính thức được ngành thuế Hà Nội báo cáo Tổng thu ngân sách địa phương năm 2013 của Hà Nội dự kiến giảm 11.824 tỷ đồng, trong đó cấp TP giảm 10.900 tỷ đồng; cấp quận, huyện, thị xã giảm 924 tỷ đồng. Còn theo Bộ Tài chính, dự tính sẽ hụt thu khoảng 60.000 tỷ đồng trong năm 2013.
Tình hình thu chi ngân sách khá hạn hẹp nhưng vẫn chưa thu hồi được những khoản tiền thuế lên tới hàng nghìn tỷ đồng đang “nằm” ở nhiều đơn vị khi có tới 40 địa phương chưa đạt tiến độ thu theo yêu cầu. Trong số này có các trọng điểm thu và từng là những “điểm sáng” về thu ngân sách như: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương. Đây cũng là những địa phương có nguồn thu và nguồn chi lớn bằng nhiều địa phương khác cộng lại.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước hiện nay, nhiều người cho rằng việc giảm thu là do… khó khăn chung. Thế nhưng, vấn đề lớn với ngành thuế hiện nay là tình hình nợ đọng thuế của các doanh nghiệp (DN), tổ chức, cá nhân còn lớn bất thường. Trong khi ngành thuế phải đau đầu với khó khăn thu ngân sách thì nhiều DN đua nhau xin giãn, hoãn và giảm nộp thuế. Trong sản xuất kinh doanh, với nhiều DN, đôi khi chỉ cần một trợ lực nhỏ cũng có thể thoát khỏi bờ vực phá sản. Thực tế, Nhà nước cũng đã có chủ trương ưu đãi, chia sẻ khó khăn với các DN. Nhưng làm ăn gặp khó khăn trong tình cảnh chung của thị trường trong nước khi kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động, sản lượng sụt giảm, giảm mạnh về doanh số, thua lỗ là một chuyện, còn ở đây có DN làm ăn tốt mà cũng xin ưu đãi đủ đường lại là chuyện đáng bàn…
Video đang HOT
Năm 2013, tổng số tiền giãn, miễn, giảm thuế cho các DN theo Nghị quyết của Quốc hội lên tới 37.700 tỷ đồng. Trong khi ngân sách gặp khó khăn vì nhiều địa phương hụt thu, việc các DN đua nhau xin giảm thuế với số tiền cả nghìn tỷ đồng. Xin miễn giảm trong năm nay là một lẽ, nhưng lại còn có cả chuyện xin miễn giảm trong… tương lai. Những ” ông lớn” như các “đại gia” sản xuất ô tô nội địa, khai khoáng đua nhau nại ra đủ lý do xin ưu đãi các cơ chế, chính sách thuế cho những đề án mai sau với số tiền hàng nghìn tỷ đồng. Với lý do DN ngoại vào Việt Nam cũng được ưu đãi thuế, mới đây, “đại gia” ngành viễn thông Viettel cũng có văn bản gửi Thủ tướng xin miễn thuế nhập khẩu trong 5 năm, kể từ năm 2013 đến hết năm 2017 nhiều DN xin giảm thuế với thời hạn tới 5 năm. Nhiều DN lợi dụng chính sách ưu đãi thuế bằng việc báo lỗ để trốn thuế thông qua chuyển giá, hoàn thuế giá trị gia tăng… Theo thống kê của Bộ Tài chính, 1.172 DN báo lỗ có dấu hiệu chuyển giá, thế nhưng không ít trong số này sau thanh tra lại thấy… lãi. Chỉ riêng ở Hà Nội, số liệu từ Cục Thuế Hà Nội cho biết, chỉ riêng 77 DN lớn trên địa bàn đang trây ỳ và nợ ngân sách tổng cộng hơn 1.806 tỷ đồng tiền thuế. Có những DN nợ thuế lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Trong bối cảnh ngân sách phải “cân đong đo đếm, co kéo thu xếp” từng đồng, tình trạng DN “chạy” xin giảm thuế đều thuộc tốp “đại gia” mưu cầu lợi riêng trong khi ngân sách bị thất thu khoản tiền lớn khiến dư luận nghĩ đến cuộc chạy đua “né” thuế.
Tình trạng thất thu cũng còn do lực lượng chức năng thu chưa đúng, chưa đủ, chưa kịp thời. Dư luận cho rằng để tăng nguồn thu ngân sách, việc tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong ngành tài chính, thuế, hải quan sẽ tạo sự minh bạch trong kê khai về thuế và các khoản thu có liên quan để bảo đảm chống thất thu ngân sách – một công việc trách nhiệm của nhiều phía.
THIÊN THANH
Theo ANTD
100 nghìn doanh nghiệp "chết" trong 2 năm
"Trong vòng 2 năm, dự báo có gần 100.000 doanh nghiệp rời thị trường, tương đương với một nửa số doanh nghiệp đóng cửa trong vòng 20 năm qua", Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho biết.
Chủ tịch VCCI - Vũ Tiến Lộc cho rằng cần thêm các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp.
- Ông nhận định tình hình doanh nghiệp trong nước thế nào qua đợt khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại TPHCM và một số địa phương?
- Khảo sát của VCCI vừa qua là chọn mẫu ở quy mô nhỏ, chúng tôi chủ yếu lắng nghe doanh nghiệp nhiều hơn. Do vậy, nếu thống kê thì ít có tính đại diện. Tuy nhiên, căn cứ vào những số liệu của cơ quan chức năng thì đến nay, có ít nhất 30% doanh nghiệp đã rời thị trường. 70% còn lại cũng hết sức khó khăn, phần lớn là thua lỗ. Thực tế cho thấy, hầu hết doanh nghiệp sống được đến thời điểm này là nhờ "lương khô" - những gì họ tích lũy được từ nhiều năm. Nhưng nay lương khô có lẽ cũng cạn rồi. Nếu tình trạng khó khăn này kéo dài, tôi không nghĩ doanh nghiệp trụ được lâu.
Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì năm nay có khoảng 50.000 doanh nghiệp rời thị trường, cộng với 49.000 của năm ngoái là xấp xỉ 100.000. Con số này tương đương với một nửa số doanh nghiệp "chết" trong vòng 20 năm qua, kể từ khi có Luật Doanh nghiệp. Chưa bao giờ doanh nghiệp lại "chết" nhiều như vậy.
- Bên cạnh những khó khăn chung của nền kinh tế, theo ông, đâu là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng bết bát của doanh nghiệp hiện nay?
- Trước hết, cần thừa nhận các chính sách kinh tế vừa qua đã tác động không nhỏ tới hoạt động của doanh nghiệp. Có nhiều vấn đề, nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh tính minh bạch trong chính sách. Doanh nghiệp thực ra có sức sống rất bền bỉ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ đều có thể tìm cách sống được. Điều họ cần là tính khả đoán của chính sách, cũng như thông tin đầy đủ về thị trường. Ở Việt Nam trước nay làm việc này chưa tốt.
Thứ hai là khả năng quản trị của chính doanh nghiệp. Qua khảo sát vừa rồi, chúng tôi thấy vẫn có một bộ phận sống rất tốt trong khủng hoảng. Họ đa phần là những công ty có quy mô vừa, được lãnh đạo bởi các doanh nhân trẻ, được đào tạo bài bản, quản trị tài chính tốt. Quan trọng hơn là họ tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, nhưng biết đa dạng hóa thị trường. Những trường hợp "chết" thì ngược lại, họ làm ngoài ngành nhiều nhưng thị trường thì lại bó hẹp.
Một vấn đề nữa là các công ty nhỏ trước đây, mỗi lần kiếm được hợp đồng, làm thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn thì rất yên tâm. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, khi các công trình do doanh nghiệp lớn làm gặp khó khăn, không minh bạch về tài chính, thì nhà thầu phụ bị kẹt vốn, khó khăn theo. Nhiều trường hợp đã "chết theo" những ông lớn.
- Kể từ đầu năm đến nay, Chính phủ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ nhằm "cứu" doanh nghiệp. Ông đánh giá như thế nào về kết quả của những chính sách này?
- Không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được từ những chính sách vừa qua. Tuy nhiên, tôi thấy bản thân những chính sách này chủ yếu vẫn tập trung vào hỗ trợ chi phí, chẳng hạn như dãn - giảm thuế, cho hoãn các khoản phải nộp... Những biện pháp này là đúng nhưng chưa đủ. Chủ trương tái cơ cấu doanh nghiệp là có, nhưng chưa thực hiện được nhiều. Tôi cho rằng cần đẩy mạnh việc làm này hơn nữa.
Một vấn đề khác là lựa chọn đối tượng hỗ trợ. Hiện chúng ta mới tiến hành hỗ trợ chủ yếu theo lĩnh vực, theo quy mô trong khi việc lựa chọn thông qua năng lực cạnh tranh còn bị bỏ ngỏ. Điều này đã phần nào hạn chế hiệu quả của chính sách, bởi trong cùng một ngành, có nhiều doanh nghiệp chỉ gặp khó khăn tạm thời, vượt qua được sẽ phát triển mạnh hơn. Tuy nhiên, cũng có những anh mà chỉ cần dứt hỗ trợ là chết. Những đối tượng như vậy cần phải thanh lọc qua khủng hoảng.
- Vậy theo ông, cần phải làm thêm gì để hỗ trợ doanh nghiệp?
- Tôi cho rằng cần làm 2 việc: Không tạo thêm khó khăn và đưa doanh nghiệp tiến mạnh hơn vào quá trình tái cấu trúc. Để không tạo thêm khó khăn, tôi đồng ý là phải hỗ trợ chi phí, nhất là trong các khoản thuế và chính sách lương. Thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam hiện cao hơn so với các nước trong khu vực. Như Thái Lan, họ vừa giảm từ 30% xuống 23%. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đều đang áp thuế với khu vực vừa và nhỏ là 17%, trong khi ở Việt Nam hiện vẫn là 25%.
Tôi nghĩ cần phải giảm ngay mức thu này. Cụ thể bao nhiêu còn tuy thuộc vào ngân sách nhưng nếu có thể, nên đưa ngay xuống 20%. Vừa qua cũng có ý kiến cho rằng giảm thuế vào lúc này không có nhiều ý nghĩa, bởi thực tế đâu có nhiều doanh nghiệp có lợi nhuận để đánh thuế. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây mới chính là lúc cần hỗ trợ số ít các doanh nghiệp đang có lãi, để họ có cơ hội tích lũy, đầu tư trong tương lai.
Về lương, VCCI cùng một số hiệp hội ngành nghề lớn vừa có văn bản kiến nghị lên các cơ quan chức năng về lộ trình tăng lương tối thiểu. Chúng tôi đồng ý cần tăng lương để cải thiện đời sống người lao động. Tuy nhiên, đây là việc ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp nên cần tính toán kỹ, có lộ trình cụ thể cho trung hạn, thay vì cứ mỗi năm lại có mức tăng khác nhau.
Cũng cần lưu ý rằng, tăng lương phải gắn với tăng năng suất lao động. Tốc độ tăng năng suất bình quân ở Việt Nam hiện là 4,5 - 5% một năm, trong khi trung bình ASEAN là 10%. Do vậy, sau khi cân nhắc, chúng tôi đề xuất mức tăng lương 15% một năm, trong vòng 3 năm tới. Tăng ổn định như vậy thì doanh nghiệp mới tính toán, đưa vào kế hoạch sản xuất, kinh doanh được. Cuối cùng, như đã nói ở trên, tôi cho rằng cần đẩy mạnh hơn nữa quá trính tái cơ cấu, tăng cường tính minh bạch trong cả chính sách lẫn tại doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể giữ kín bí mật kinh doanh, nhưng tài chính thì phải công khai, rõ ràng.
- Ở góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp, ông dự báo như thế nào về triển vọng kinh doanh thời gian tới?
- Với tình hình hiện nay, tôi cho rằng doanh nghiệp sẽ còn khó khăn trong vòng 1- 2 năm tới. Bởi cho đến thời điểm hiện tại, tôi chưa thấy có nhân tố nào đột biến khi mà đầu tư công sẽ tiếp tục bị kiểm soát chặt, tiếp cận tín dụng khó khăn, thị trường chứng khoán ảm đạm trong khi vốn nước ngoài cũng huy động rất khó khăn. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không có ánh sáng. Bởi tình thế hiện nay đang buộc doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý thay đổi và tất nhiên, thay đổi này phải theo hướng tích cực hơn.
Theo laodong
Thu ngân sách 9 tháng đạt gần 68% dự toán Theo Tổng cục Thuế, lũy kế 9 tháng với tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) của ngành Thuế ước đạt 436.336 tỷ đồng, bằng 67,7% so với dự toán, bằng 109,1% so với cùng kỳ năm 2012. Trong tháng 9, ước thu nội địa đạt 41.300 tỷ đồng, bằng 6,4% so với dự toán. So với tháng trước, thu nội địa tháng...