Cả làng nấu cao x.ác n.gười phụ nữ vì tưởng… tinh tinh
Người thợ săn mang từ rừng về xác một con tinh tinh, chia cho dân làng nấu cao, ngâm rượu. Không ai ngờ “con tinh tinh” ấy là… x.ác n.gười.
Dân làng nhầm tưởng x.ác n.gười là xác tinh tinh nên đem về nấu cao, ngâm rượu uống. Nhưng tại sao một phụ nữ sống ở địa phương khác lại được tìm thấy xác ở khu rừng Đông Cốc xa xôi? Phải chăng có người g.iết b.à rồi đem lên đồi đ.ốt x.ác phi tang; hay vì một chuyện riêng tư nào đó mà n.ạn n.hân quẫn trí, tìm lên đồi cao t.ự t.hiêu?
16 năm về trước, chiều ngày 5/12/1998, ông Đinh Văn Ngạch (SN 1946, ngụ thôn Đá Cóc, xã Thắng Sơn, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ) lên khu rừng mình trông coi để săn b.ắn, phát hiện khoảng rừng bằng phẳng cháy trụi. Đặc biệt gần đó xuất hiện một vật thể lạ, đã cháy phía ngoài đen thui do lửa đốt, dáng giống hệt một con tinh tinh.
Ông Ngạch kiếm dây rừng kéo xác “vật quý hiếm” về làng. “Xác “con tinh tinh” đã bị biến dạng, cháy xém, đen thui, lưng gù, bắp chân vừa to vừa dài, hai bàn tay co quắp, móng tay khá dài, chi trước phồng lên. Do bị cháy nên cằm hất lên, cổ rụt, khuôn mặt co lại khiến cả hàm răng nhe ra trắng nhởn. Cả làng kéo đến xem. Hàng chục người hồ hởi xẻ thịt “tinh tinh”, nấu cao ngâm rượu uống.
Di ảnh người phụ nữ bị một số người nhầm tưởng là “tinh tinh” nên mang về nấu cao.
Không ai ngờ “con tinh tinh” ấy là… x.ác n.gười. Vài ngày sau, khi một lão nông tìm thấy chứng cứ chứng minh đó là người t.ự t.hiêu, ba xe cảnh sát tìm tới vùng sơn thâm cùng cốc. Kết quả giám định ADN kết luận “con tinh tinh” bị dân làng Đá Cóc nấu thành cao chính là một thiếu phụ gần đó.
Tổng cộng hơn 20 người trực tiếp nấu cao hoặc chứng kiến việc nấu cao “con vật quý hiếm” đều được triệu tập lấy l.ời k.hai. Tuy nhiên, tất cả những người này đều nhất loạt khai khi đó không biết x.ác c.hết là con người, chỉ nghĩ là con vật vì hình hài quá giống tinh tinh.
Bản thân ông thợ săn, người đầu tiên phát hiện ra x.ác c.hết và mang về làng nấu cao, cũng một mực cho rằng khi ông lên rừng thì phát hiện “con tinh tinh” khi đó đã có biểu hiện p.hân h.ủy nhẹ, ruồi nhặng bâu đầy, chuyện x.ác n.gười ông còn nhầm lẫn là “tinh tinh”, thì vì sao n.ạn n.hân c.hết, ông không hề hay biết. Mọi người thoát tội.
Như vậy đã có thể kết luận, dân làng nhầm tưởng x.ác n.gười là xác tinh tinh nên đem về nấu cao, ngâm rượu uống. Nhưng tại sao một phụ nữ sống ở địa phương khác lại tìm thấy xác ở khu rừng Đông Cốc xa xôi? Phải chăng có người g.iết b.à rồi đem lên đồi đ.ốt x.ác phi tang; hay vì một chuyện riêng tư nào đó mà n.ạn n.hân quẫn trí, tìm lên đồi cao t.ự t.hiêu?
Chuyện đời buồn của người phụ nữ không chồng
N.hân c.hứng vụ việc cho biết, buổi chiều hôm công an xuống địa phương, chuẩn bị đưa tang vật “cao tinh tinh” lên xe ô tô về TP Việt Trì xét nghiệm thì tiếng chuông điện thoại bàn tại UBND xã Thắng Sơn vang lên. Đầu dây bên kia giới thiệu là người của UBND xã Yên Lương cùng huyện Thanh Sơn. Ủy ban xã này thông báo, bà Đinh Thị Minh Th. (SN 1949, ngụ đội 7, xã Yên Lương) mất tích từ ngày 29/11 đến nay chưa tìm thấy.
Video đang HOT
Khi đi bà Thời đeo dép tông màu vàng, đội nón trắng, khoác túi đựng quần áo, cầm một can đựng nước. Chưa cần kết quả xét nghiệm, những vật chứng tìm thấy tại hiện trường đã đủ cho thấy 90% “con tinh tinh” chính là bà Th.. PV đã tìm đến nhà người phụ nữ xấu số m.ất m.ạng 16 năm về trước để dựng lại hiện trường sự việc. Ông Đinh Văn T. em trai n.ạn n.hân cho biết, chị gái mình là con thứ hai trong gia đình có năm anh em.
Lớn lên bà theo học một lớp sư phạm, nhưng thời chiến tranh, đang học thì nhà trường giải thể, bà Th. quay về sống với bố mẹ. Lúc đó các chị em còn lại trong gia đình đều đã lập gia đình, ra ở riêng. Ở nhà chỉ có bố mẹ già ốm yếu và ông T.. Vậy là bà Th. gánh vác trách nhiệm cấy cày làm lụng nuôi bố mẹ già. T.uổi trẻ bà nhanh chóng qua đi, cuối cùng không lấy được chồng, đành ở vậy với bố mẹ và em trai.
Trong ký ức của người em trai, chị gái ông là người hiền lành, chăm chỉ, thường xuyên chăm sóc cha mẹ và các cháu chu đáo. Trước hôm mất tích, bà Th. thường ở nhà chăn trâu bò, làm ruộng, nương rẫy cùng vợ chồng người em. Cuộc sống dù vất vả nhưng đủ ăn, mọi người thương yêu nhau. Gia đình có người anh làm công an công tác trong Sài Gòn. Trước khi mất tích, bà Th. từng một thời gian vào trong N.am s.inh sống với anh trai.
Mười sáu năm trôi qua, cảnh vật và cuộc sống thay đổi nhiều, ông T. vẫn nhớ như in hôm chị gái mất tích là ngày 29/11/1998. Sáng đó vợ chồng ông đi làm nương rẫy sớm, con cái đi học, một mình chị gái ở nhà. Đến tối đi làm về, không thấy chị gái đâu, vợ chồng ông hỏi hàng xóm thì được biết, khoảng 9h sáng, thấy bà Th. đi khỏi nhà, ra đường cái bắt xe ngược lên theo hướng thị trấn Thanh Sơn. Sau ba hôm không thấy chị gái về, cũng không nhận được tin tức gì, gia đình bắt đầu lo lắng, bất an.
Người em trai nhớ lại, khi đó gọi điện cho các anh chị sống trong huyện và người anh sống trong Sài Gòn, nhưng không ai biết bà Th. đi đâu. “Khi đã gọi điện đến hết anh chị em, bạn bè, người thân họ hàng mà không biết tin tức gì về chị, tôi đã báo cáo sự việc lên chính quyền thôn, xã, đề nghị giúp đỡ tìm kiếm chị tôi”, ông T. nhớ lại. Gần một tháng sau, gia đình mới phong thanh nghe được tin ở xã bên có sự việc một người c.hết cháy ở trên đồi, đã bị nấu cao vì nhầm tưởng là tinh tinh.
Ông T. được công an mời ra ủy ban xã lấy mẫu đi xét nghiệm AND, đến lúc ấy mới hay hóa ra người c.hết cháy kia chính là chị gái mình. Ông T. nhớ lại: “Sau đó công an giao cho gia đình tôi một hũ tiểu đựng chiếc đ.ầu l.âu, túi bóng đựng cao, một số xương xẩu và vài cái khuy áo, cạp tóc… Gia đình tôi rất sốc, không tin là người nhà mình làm sao mà đến nông nỗi này”.
Nén lại đau thương, gia đình tổ chức đám tang như bình thường cho người xấu số. Rất đông dân làng tự nguyện quên góp công sức, t.iền bạc để đám tang tươm tất nhất có thể. Sau hơn một ngày tổ chức theo đúng nghi lễ ma chay của người Mường ở địa phương, phần mộ người xấu số được chôn cất ở một gò đất cao, cách nhà khoảng 1km, xây bằng xi măng kiên cố.
N.ạn n.hân bị s.át h.ại hay chán cảnh đơn thân nên t.ự v.ẫn?
Cái c.hết của bà Th. vì động cơ gì, mãi mãi vẫn chìm trong bí ẩn. Chỉ có l.ời k.hai suy đoán từ một n.hân c.hứng duy nhất là ông Tám, người đã phát hiện ra sự thật “tinh tinh” chính là x.ác n.gười. Đêm ấy ông đã chứng kiến vụ cháy ở ngọn đồi phía bên kia, nhưng n.ạn n.hân tự vẫn, hay n.ạn n.hân bị s.át h.ại rồi đem lên đồi đ.ốt x.ác phi tang?
Em trai n.ạn n.hân cho rằng cái c.hết của chị gái mình có oan khuất.
Sau sự việc, dân địa phương kể cho nhau rằng, thời gian bà Th.vào Sài Gòn sống với anh trai, gom góp được hai bông tai bằng vàng nặng hai chỉ. Hôm bỏ nhà ra đi, khoảng 17h, bà đến địa phận xã Thắng Sơn, định bắt xe đi La Phù (Thanh Thủy, Phú Thọ). Bà dừng lại ở trạm chờ xe 318 một hồi lâu nhưng không có xe, nên đi quay trở lại.
Sau đó bà mất tích, rồi phát hiện ra xác ở trên đồi, c.hết cháy. Khoảng cách từ trạm chờ xe 318 đến ngọn đồi phát hiện x.ác c.hết là trên 3km. Khoảnh cách từ nhà bà đến chỗ x.ác c.hết khoảng 10km. Theo suy đoán của một số người, sau khi bà Th. không bắt được xe, định quay lại thì bị kẻ xấu s.át h.ại, cướp đôi bông tai bằng vàng, sau đó mua xăng, lôi xác lên đồi, gom củi lại đ.ốt x.ác phi tang.
Suy đoán này khá có cơ sở, vì sau đó những đồ dùng của bà đều được tìm thấy, riêng đôi bông tai bằng vàng là không thấy đâu. Dù có bị cháy, vàng cũng không thể tan ra thành nước ngấm xuống đất. Nếu không bị cướp, thì có thể một ai đó sau này khi đến hiện trường vụ cháy, đã nhanh tay đút túi?
Tuy nhiên, Trưởng thôn Đá Cóc Hoàng Văn Dũng cho biết, theo điều tra của công an, n.ạn n.hân c.hết là do t.ự v.ẫn. Bà Th. sống một mình không chồng con, thời gian đó lại xích mích với gia đình người em nên bà nghĩ quẩn. Sau khi không bắt xe đi được đến nhà người quen, bà đã mang chiếc can nhựa đi mua xăng, sau đó lên đồi thu dọn lại củi rồi tưới xăng châm lửa đốt t.ự t.hiêu.
Kết luận chính thức của cơ quan điều tra lại không thuyết phục được người thân bà Th. Em trai n.ạn n.hân cho biết, chị gái mình có thói quen mang theo can là để đựng nước uống khi đi xa, nhất là đi tàu xe. Hơn nữa, không lí do gì bà lại đi đến một nơi xa xôi như vậy mới t.ự v.ẫn. Ngoài ra, nếu có ý định t.ự v.ẫn thì tại sao khi rời khỏi nhà bà lại mang theo túi quần áo?
Ông Đinh Văn Hoàn, Chủ tịch UBND xã Thắng Sơn cho biết, công an đã vào cuộc điều tra cặn kẽ sự việc trước khi đưa ra kết luận cuối cùng, nên dù có thể vẫn còn một vài uẩn khúc, nhưng lý do t.ự t.hiêu tự vẫn vẫn là lý do có sức thuyết phục nhất. Về sự việc người dân nhầm lẫn tai hại, x.ác n.gười lại tưởng xác động vật nên đem về nấu cao, ông chủ tịch xã cho rằng đây là t.ai n.ạn đau lòng, không ai muốn xảy ra.
Ông chủ tịch xã tiếc nuối: “Giá như khi phát hiện vật thể lạ, người dân không vì một chút hám lợi mà báo ngay cho lực lượng chức năng địa phương xuống kiểm tra, xử lí thì đã tránh được những sự việc đáng tiếc như đã xảy ra”. Ông Hoàn lý giải thêm, hiện nay diện mạo xã Thắng Sơn đã thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao. Tuy nhiên, 16 năm về trước, nơi đây còn hẻo lánh, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhận thực của một số người dân còn hạn chế. Đấy cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn tai hại trên.
Theo Pháp Luật Việt Nam
Cuộc đời 'làm ơn, mắc oán' của thầy lang tự học nghề chữa bệnh cho con
"Bao năm nay tôi chữa bệnh giúp người nhưng gia đình toàn gặp phải những điều không hay, khiến tôi nhiều lúc chỉ biết kêu than với trời không thể làm gì được".
Thầy lang Phúc đang chắt nước thuốc chữa cho người bệnh
Thương cô con gái đầu mắc bệnh hiểm nghèo, ông giáo Triệu Tiến Phúc (SN 1947, người dân tộc Dao, ngụ xóm Liên Thành, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) tự học nghề thuốc cứu con. Con khỏi bệnh cũng là lúc ông trở thành "thầy lang" có tiếng khắp vùng. Nhưng bất hạnh vẫn đeo đuổi, người con đó bị lừa bán sang Trung Quốc 20 năm, người con gái khác mới đây lại bị s.át h.ại tức tưởi. Ông lang quá đau lòng, chỉ gắng gượng sống với nghề thuốc để giúp người đời.
Học nghề thuốc cứu con
Nhiều năm nay, người Dao, người Mường ở các thôn bản thuộc huyện Thanh Sơn (tỉnh Phú Thọ) và cả những bệnh nhân người Kinh ở dưới xuôi lên đều gọi ông một cách giản dị: "Ông Phúc đông y". Ông Phúc thấu hiểu được nỗi khổ cực của bà con dân tộc mình ở nơi sống thiếu thốn, lạc hậu. Khi chưa "chạm ngõ" nghề bốc thuốc, với mong muốn đem lại cái chữ cho người dân, ông đã tự học chữ để về dạy cho bà con và trở thành anh giáo trẻ được dân bản tin yêu. Năm 1971, ông Phúc cưới bà Phùng Thị Tình (kém 3 t.uổi). Cuộc sống của một thầy giáo khó khăn, nay phải lo cho gia đình càng trở nên vất vả. Đôi vợ chồng trẻ đã cùng nhau khai hoang nhiều đồi để trồng cây, trồng chè nhằm tạo thêm thu nhập. Tuy còn thiếu thốn nhưng ngôi nhà nhỏ trên lưng chừng đồi luôn rộn vang tiếng cười.
Hạnh phúc càng tròn đầy khi người vợ sinh con gái đầu lòng vào năm 1972, đặt tên là Triệu Thị Vân. Bé con bụ bẫm, kháu khỉnh, hay ăn chóng lớn làm bao nỗi lo toan vất vả của bố mẹ như được tan biến. Nhưng bất hạnh đến khi đứa con được bốn t.uổi. "Nó bỗng không chịu ăn uống, cấm khẩu, nằm như một khúc gỗ. Vợ chồng tôi mang con đi khám, bác sỹ bảo mắc bệnh viêm não Nhật Bản rất khó chữa", ông Phúc kể. Nhà nghèo nhưng vợ chồng ông vẫn lặn lội mang con đi khắp nơi tìm thầy tìm thuốc mong con khỏi bệnh. "Có lúc tưởng đã phải bỏ cuộc nhưng nhìn con nằm đấy, bị bệnh tật h.ành h.ạ, không ăn uống, không nói cười khiến lòng tôi quặn đau", bà Tình bồi hồi nhớ lại.
Ông Phúc vừa thương con vừa thương vợ đã gắng sắp xếp việc dạy học hợp lý để có thời gian đưa con đi chữa bệnh. Sau mấy năm trời ngược xuôi khắp nơi, cuối cùng ông bà đưa con đến chữa trị tại nhà một ông lang xã bên cạnh, không ngờ bệnh tình bé Vân ngày một chuyển biến. Thấy con có vẻ hợp thầy hợp thuốc, ông Phúc tràn trề hi vọng, quyết định xin nghỉ dạy một thời gian để sang nhà ông lang kia chăm sóc con và phụ giúp chữa bệnh. "Ban đầu, ông lang không đồng ý nhưng khi tôi trình bày hoàn cảnh, ông ấy đã giúp đỡ nhiệt tình", ông Phúc vui vẻ kể. Thời gian đầu, ông khá lóng ngóng với việc phơi khô, nghiền, sắc thuốc... Nhưng sự chăm sóc chu đáo dành cho con gái và tính chịu thương chịu khó của ông đã khiến ông lang kia cảm động, bắt đầu tỉ mẩn hướng dẫn từng đơn thuốc, thang thuốc, còn cho đi theo mỗi lần hái thuốc. "Nhiều cây thuốc tôi không biết tên, nhưng do nhìn quen trong mỗi lần theo thầy đi hái nên giờ chỉ cần nhìn cây, nhìn lá là biết cây đó dùng để chữa bệnh gì", ông Phúc cho biết.
Sau đó, ông đã được thầy lang nhận làm con nuôi và truyền hẳn nghề. Khi cô con gái được chữa khỏi bệnh cũng là lúc ông Phúc học thành thạo và trở thành một thầy lang "chính hiệu" chuyên bốc thuốc chữa bệnh cứu người.
Con vừa khỏi bệnh đã bị lừa bán sang Trung Quốc
Tâm sự hoàn cảnh gia đình, ông Phúc buồn rầu: "Bao năm nay tôi chữa bệnh giúp người nhưng gia đình toàn gặp phải những điều không hay, khiến tôi nhiều lúc chỉ biết kêu than với trời không thể làm gì được". Gia đình có chín người con (hai trai, bảy gái), cảnh nghèo, con đông, cuộc sống chật vật. Mới đây, vào ngày 30 Tết Giáp Ngọ, cô con gái út tên Triệu Thị Phượng (SN 1995) lấy chồng cùng xóm bị người chú giở trò đ.ồi b.ại và nhẫn tâm g.iết h.ại.
"Con gái tôi lấy chồng chưa được bao lâu nhưng chồng nó không may gặp t.ai n.ạn giao thông qua đời. Thấy nó còn trẻ, người chú họ gần nhà thường mon men rình mò, tán tỉnh nhưng bị nó từ chối, còn đem chuyện kể cho vợ chú biết. Vợ chồng hắn ta cãi nhau. Hắn tức mình qua trút giận lên con tôi. Cháu ngoại tôi mới hơn hai t.uổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ", ông Phúc nghẹn ngào. Vừa dứt tâm sự về người con vắn số, ông Phúc lại đưa tay chỉ người phụ nữ đang bận rộn chắt nước thuốc cho bệnh nhân, giới thiệu chính là Triệu Thị Vân, cô con gái đầu từng mắc bệnh viêm não.
Nhìn con gái với ánh mắt đầy yêu thương, ông tâm sự: Vân mới trở về nhà được hơn một năm sau 20 năm bị lừa bán sang Trung Quốc. Năm 1993, sau khi được cha chữa khỏi bệnh, cô bé gặp nạn trong một lần đi cắt tóc ở thị trấn Thanh Sơn. "Chúng tôi tưởng đã mất hẳn đứa con gái tội nghiệp, nào ngờ sau 20 năm, nó vượt qua bao khổ cực đã trở về đoàn tụ với cha mẹ và các em", ông nói. Theo lời kể, hôm đó Vân về nhà sau một ngày theo bố đi hái thuốc khá vất vả. Biết bố vui vì hái được nhiều cây thuốc quý, cô gái mạnh dạn xin phép xuống thị trấn Thanh Sơn vui chơi và làm tóc. Dù không yên tâm để con gái mới khỏi bệnh đi một mình, nhưng ông vẫn bằng lòng chiều con.
Trước khi con đi, ông còn dúi cho con dăm ba đồng mua đồ. "Bệnh tình Vân chưa khỏi hẳn, lúc nó ra khỏi nhà, tôi còn dặn với theo đi đường cẩn thận, đừng tiếp xúc với người lạ và phải nhanh về cho sớm", vợ ông Phúc cho hay. Tới 19h chưa thấy con gái về, cả nhà mới tá hỏa đi tìm, xuống tới thị trấn được người ta cho biết: "Con gái ông bà đã bị kẻ xấu lừa bán sang biên giới Trung Quốc". Ông bà quá thương con, phải mất một thời gian rất lâu sau đó mới lấy lại được tinh thần. Ông Phúc nhớ lại: "Không tin con gái bị người ta lừa, vợ tôi ngày ngày bắt tôi đi hỏi người quen xem Vân có qua đó chơi không... Nhưng tin tức về con ngày một biệt tăm biệt tích. Ngay cả cơ quan công an cũng đành bó tay trước sự mất tích của nó".
Ngày đoàn viên không trọn vẹn
Chị Vân nãy giờ ngồi im lặng nghe bố mẹ kể chuyện, bắt đầu trải lòng: Chiều hôm đó chị đang ngồi làm tóc, bất ngờ một người đàn bà tới vỗ vai cười nói như đã thân quen từ trước. "Bà đó rủ đi uống bia. Tôi bảo không biết uống. Nhưng bà ta nài nỉ và cứ thế kéo tôi qua một quán bia, ép phải uống. Có thể cốc bia có thuốc mê nên mới uống được một ngụm tôi đã gục xuống bàn không biết gì", Vân kể. Lúc tỉnh lại, chị thấy mình ở một nơi rất xa lạ, hỏi người bên cạnh mới biết đã bị đưa sang biên giới Trung Quốc.
Người con gái tiếp tục kể về chuỗi ngày khốn khổ nơi xứ người: "Chúng cho tôi uống thuốc nằm mê man mất 3 ngày. Tỉnh lại, tôi thấy mình đang ở trong một ngôi nhà khá giả, sạch sẽ, gọn gàng. Chúng bảo sẽ đưa tôi đi gặp "chồng" tương lai. Tôi sợ quá kêu lên liền bị đ.ánh đấm cho tối tăm mặt mũi". Cuối cùng chị bị bán làm vợ một người đàn ông Trung Quốc tên A Chén với giá 5 triệu đồng.
Theo Xahoi