Bước đi bất ngờ, đầy khiêu khích và bất hợp pháp
Đó là nhìn nhận mở đầu bài viết “China’s Oil Rig Gambit: South China Sea Game – Changer?” (Tạm dịch: “Nước cờ giàn khoan của Trung Quốc có giúp họ thắng bàn cờ biển Đông?”) của GS. Carl Thayer (chuyên gia về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Australia), đăng trên Tạp chí uy tín Diplomat. Báo An ninh Thủ đô Cuối tuần xin lược dịch bài viết này.
GS. Carl Thayer
Vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế
Hành động đưa giàn khoan HD-981 (Haiyang Shiyou-981) vào lô 143 thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam vào ngày 2-5 là một bước đi bất ngờ, đầy khiêu khích và bất hợp pháp.
Sự kiện này cũng đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng EEZ của quốc gia khác mà không được sự cho phép. Đây cũng là một động thái bất ngờ, bởi quan hệ Việt Nam – Trung Quốc dường như đang ấm dần lên kể từ sau chuyến thăm Hà Nội vào tháng 10-2013 của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Thậm chí, vào thời điểm đó, cả hai bên đều cho thấy sự nhất trí sẽ tiến hành các cuộc thảo luận về vấn đề biển đảo. Ngoài ra, động thái của Trung Quốc còn bất ngờ bởi Việt Nam không hề có hành động gây hấn nào trước đó để Trung Quốc phải đáp trả bằng một hành động chưa có tiền lệ như vậy. Sự khiêu khích của Trung Quốc lộ rõ ở việc đưa tới 80 tàu (đến nay là 99 tàu-PV), trong đó có 7 tàu hải quân, hộ tống cho giàn khoan HD-981. Trong khi Việt Nam cử tàu của lực lượng Cảnh sát biển tới để bảo vệ quyền chủ quyền của quốc gia mình thì Trung Quốc lại phản ứng bằng cách dùng vòi rồng và cố tình va chạm với tàu Việt Nam. Những việc làm như vậy rất nguy hiểm và đã khiến một số thủy thủ của Việt Nam bị thương.
Hành động đó rõ ràng vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, nhưng người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc – bà Hoa Xuân Oánh lại biện minh bằng tuyên bố vô lý rằng giàn khoan đang hoạt động trong “vùng lãnh hải của Trung Quốc” và không liên quan gì đến Việt Nam. Nhưng làm như thế cũng có nghĩa là Trung Quốc đã “há miệng mắc quai”, bởi lẽ Trung Quốc cũng từng sử dụng tàu bán quân sự và máy bay để thách thức tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản xung quanh đảo Senkaku. Trung Quốc tìm cách “bẫy” chính quyền Tokyo vào “sự đã rồi”, thừa nhận quần đảo Senkaku “đang có tranh chấp”.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh chỉ đưa ra một tuyên bố chung chung, thiếu chi tiết về lập luận pháp lý để bảo vệ cho hành động ngang ngược, phi pháp của nước này. Bà Hoa Xuân Oánh nói giàn khoan HD-981 nằm trong lãnh hải của Trung Quốc là không có bất kỳ cơ sở nào, vì không có thực thể lãnh thổ nào của Trung Quốc trong vòng 12 hải lý kể từ lô 143.
Chính sự thiếu minh bạch của Trung Quốc đã khiến các học giả và các nhà phân tích chính trị khu vực ngờ vực về căn cứ pháp lý mà Trung Quốc sử dụng cho tuyên bố chủ quyền tại khu vực hạ đặt HD-981. Năm 1996, Trung Quốc vẽ một đường cơ sở quanh quần đảo Hoàng Sa, trong đó có bãi đá ngầm Tri Tôn. Giới học giả cho rằng, tuyên bố của Trung Quốc có thể dựa vào bãi đá này để mở rộng thềm lục địa cũng như EEZ. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khác lập luận đường cơ sở năm 1996 không tuân thủ điều 8 Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 nên không thể dùng để xác định chủ quyền trên lô 143.
Rõ ràng, việc TrungQuốc đặt giàn khoan HD-981 có sự hộ tống của 80 tàu vào lô 143 thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vi phạm luật quốc tế.
Bước đi có tính xâm lược từ Trung Quốc
Các nhà phân tích đã đưa ra những nhận định khác nhau về động cơ và mục tiêu của hành động gây hấn, có tính xâm lược của Trung Quốc, trong đó nổi bật 3 luồng quan điểm chính.
Thứ nhất, xem việc hạ đặt HD-981 trên vùng biển của Việt Nam “như là phản ứng không thể tránh khỏi” của Trung Quốc trước việc Việt Nam công bố Luật Biển vào giữa năm 2012. Trước khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật này, Trung Quốc đã gây áp lực ngoại giao để Luật này không được thông qua, nhưng thất bại. Ngay sau khi bộ Luật này được thông qua, Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) công bố mời thầu nhiều lô trên Biển Đông chồng lấn với các lô thuộc EEZ hợp pháp của Việt Nam.
Theo cách giải thích này thì căng thẳng hiện nay chính là hệ quả từ động thái phi lý của CNOOC. Theo quan điểm đơn phương của CNOOC, lô 143 thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Còn theo quan điểm của Bắc Kinh, các hoạt động thăm dò dầu khí thương mại sẽ làm suy yếu các tuyên bố về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Thế nhưng, giả thuyết này không thuyết phục, bởi nếu chỉ là dự án thương mại đơn thuần thì CNOOC sao phải điều tới 80 tàu hộ tống? Rõ ràng, đây là kế hoạch phủ đầu nhằm ngăn chặn Việt Nam bảo vệ EEZ hợp pháp. Chính các nguồn tin ngoại giao ở Bắc Kinh cũng tiết lộ, các quan chức CNOOC được lệnh đặt giàn khoan tại lô 143, bất chấp những lo ngại về mặt thương mại. Các nhà quan sát khác cũng chỉ ra rằng, triển vọng tìm kiếm dự trữ dầu khí thương mại ở lô này là khá thấp.
Video đang HOT
Thứ hai, hành động của Trung Quốc là nhằm đáp trả hoạt động của Hãng dầu lửa Mỹ Exxon Mobil với Việt Nam tại các lô gần đó. Giải thích này có vẻ khó xảy ra. Exxon Mobil đã hoạt động ở lô 119 từ năm 2011. Mặc dù phản đối việc Exxon Mobil được trao hợp đồng thăm dò dầu khí ở lô này, nhưng trong mấy tháng gần đây, Trung Quốc không leo thang phản đối. Hơn nữa, hành động của Trung Quốc rất có thể dẫn tới phản tác dụng. Việc Trung Quốc can thiệp vào Exxon Mobil sẽ là một thách thức trực tiếp với tuyên bố của chính quyền Tổng thống Barack Obama rằng, các lợi ích quốc gia của nước Mỹ bao gồm “thương mại hợp pháp không bị cản trở”.
Thứ ba, hành động của Trung Quốc đã được lên kế hoạch từ trước nhằm phản ứng chuyến thăm của Tổng thống Obama tới các nước châu Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines mới đây. Trong suốt chuyến đi này, Tổng thống Mỹ không ngừng công khai phản đối các biện pháp hăm dọa và cưỡng ép nhằm giải quyết tranh chấp lãnh thổ.
Một số nhà phân tích ủng hộ cách lý giải thứ ba lập luận rằng, Trung Quốc đã “thuộc lòng” việc Mỹ không thể phản ứng hiệu quả trước các cuộc khủng hoảng ở Syria và Ukraina. Do đó, Trung Quốc đã tạo ra cuộc khủng hoảng giàn khoan HD-981 vào thời điểm này.
Giả thuyết này giàu sức thuyết phục nhất, song nó lại đặt ra câu hỏi tại sao Việt Nam lại trở thành tâm điểm của cuộc khủng hoảng này. Ngoài ra, hành động của Trung Quốc có thể “phản đòn” bởi nó diễn ra ngay trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Myanmar. Phải chăng Bắc Kinh muốn trì hoãn việc đưa ra Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN?
Mặc dù tuyên bố chung từ Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vừa qua đã không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN ngày 10-5 đã đưa ra một tuyên bố lịch sử là “sự ủng hộ đối với Việt Nam” trước các hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã lên tiếng công khai ủng hộ Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố xem hành động của Trung Quốc là “gây hấn”. Quan trọng hơn, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Danny Russels mới có chuyến thăm đã được lên lịch trước tới Việt Nam. Với chuyến thăm này, ông Russels đã đánh giá trực tiếp về tình hình để giúp định hình phản ứng của chính quyền Obama.
Hành động của Trung Quốc có thể làm gia tăng những mối lo ngại của Việt Nam, Philippines, Singapore và Malaysia, khiến các nước này tìm cách tăng cường năng lực hải quân, đồng thời tìm kiếm sự đảm bảo hỗ trợ từ Mỹ và các cường quốc về hải quân như Nhật Bản, Australia và Ấn Độ.
Theo The Diplomat, Bắc Kinh sẽ đặt giàn khoan đến tháng 8-2014, trong khi Mỹ – Trung Quốc sẽ cùng tổ chức một cuộc thảo luận chiến lược thường niên vào tháng 7-2014 và nhiều khả năng hai bên sẽ bàn về tranh chấp chủ quyền trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trong bài viết “The China-Vietnam standoff: Three key factors” (Tạm dịch: Bế tắc giữa Trung Quốc – Việt Nam: 3 nhân tố then chốt) được đăng tải trên tờ Lowy Interpreter, học giả Dirk van der Kley nhận định rất có thể khả năng căng thẳng hiện nay sẽ kéo dài nhiều tháng (hoặc lâu hơn nữa).
Trên thực tế, tuyên bố của Cơ quan An toàn Hàng hải Trung Quốc (MSA) cho biết hoạt động khoan có thể tiếp tục ở cùng một địa điểm cho tới tận ngày 15-8 tới. Theo tác giả, nếu CNOOC thực sự cố định giàn khoan ở một vị trí, thì tuyên bố của MSA đã “lập lờ” về khả năng giàn khoan có thể sẽ được di dời trước ngày đó. Ở giai đoạn này, nếu giàn khoan được di chuyển sang chỗ khác, Trung Quốc có thể biện hộ rằng giàn khoan đã hoàn thành hoạt động khoan. Song dĩ nhiên “không có gì đảm bảo Trung Quốc sẽ di dời giàn khoan vào thời điểm đó”.
Theo tác giả, trong khoảng thời gian trên, rất có thể sẽ xảy ra một tình thế “nhị phân”: Hoặc là CNOOC thiết lập được một vị trí cố định cho giàn khoan tỷ USD của mình trong vùng biển của Việt Nam hoặc là không thể. Và rằng, tình hình sẽ giảm nhiệt nếu giàn khoan được di chuyển đi vào tháng 8, nhưng không có cách nào Việt Nam đảm bảo được điều này. Nếu Trung Quốc vẫn không chịu đưa giàn khoan đi, nhiều khả năng sẽ có một cuộc “mèo đuổi chuột” trong vùng biển quanh giàn khoan.
(Tiêu đề do Báo An ninh Thủ đô Cuối tuần đặt)
Theo ANTD
Vì Ukraine, Mỹ dính đòn 'hồi mã thương' nếu trừng phạt Gazprom
Thượng viện Mỹ có thể áp đặt các biệt pháp mạnh hơn để trừng phạt Nga, ví dụ nhắm vào Tập đoàn Gazprom. Nhưng theo các chuyên gia, Mỹ sẽ không thể gây thiệt hại đáng kể cho Gazprom mà thậm chí còn chuốc họa vào thân.
Châu Âu không thể ngay lập tức từ bỏ khí đốt Nga.
Một thực tế mà cả thế giới đều đã biết là Gazprom chủ yếu tập trung vào các khách hàng châu Âu và không có nhiều quan hệ kinh doanh với thị trường khí đốt Mỹ, nên nếu Mỹ áp dụng lệnh trừng phạt đối với Gazprom cũng chỉ mang lại những ảnh hưởng vô cùng khiêm tốn.
Ở châu Âu, vấn đề giảm sự lệ thuộc vào khí đốt Nga đã được đưa ra từ lâu. Trong thập niên 1970-80, châu Âu nhập khẩu 70% khí đốt của Liên Xô, nay tỷ lệ này chỉ là 41%. Trong thập niên 2000 và 2010, lượng khí đốt cung cấp cho châu Âu không tăng, dao động ở mức 130-160 tỷ m3/năm.
Tuy nhiên, châu Âu không thể ngay lập tức từ bỏ khí đốt Nga, vì khu vực này không đủ hạ tầng cơ sở trong thời gian ngắn chuyển sang nhập khẩu khí đốt các nước khác. Khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) có thể tạo ra sự linh hoạt cần thiết. Tuy nhiên, tỷ trọng LNG trong cơ cấu nhập khẩu của châu Âu hiện là 22%. Năng lực khí hóa không đủ để nhanh chóng thay thế 130 tỷ m3 khí đốt tự nhiên Nga. Vì thế việc áp đặt trừng phạt ít khả năng xảy ra về mặt kỹ thuật.
Biện pháp trừng phạt của Mỹ chỉ tác động mạnh tới Gazprom khi nhà chức trách châu Âu quyết định tham gia vào quá trình này, bất chấp thiệt hại kinh tế. Tuy nhiên, kịch bản đó khó có thể xảy ra: không chính trị gia châu Âu nào chấp nhận hi sinh sự phục hồi kinh tế mong manh của khu vực vì các kế hoạch địa chính trị của Mỹ.
Thêm vào đó, nếu kiên quyết áp đặt lệnh trừng phạt Gazprom, chính bản thân nước Mỹ sẽ chuốc lấy rất nhiều những rắc rối nguy hiểm.
Giá dầu mỏ và khí đốt thế giới tăng mạnh
Trừng phạt Gazprom có thể làm tăng giá dầu mỏ và khí đốt. Dù thị trường Mỹ, độc lập với châu Âu, song không hề miễn nhiễm trước tình trạng tăng giá khí đốt.
Trong trường hợp giá khí đốt tăng mạnh, cung cấp khí hóa lỏng (LNG) sẽ có lợi, làm tăng giá LNG trên thị trường nội địa. Tuy nhiên, đừng quên rằng cuộc "cách mạng khí đá phiến", mở ra cánh cửa tiếp cận năng lượng giá rẻ và đã làm giảm đáng kể khoảng cách chi phí giữa Mỹ và Trung Quốc.
Kết quả là nhiều nhà sản xuất đã xem xét lại quyết định chuyển cơ sở sản xuất tới Trung Quốc và nay đang diễn ra tiến trình ngược, giúp kinh tế Mỹ tăng cường hồi phục. Tuy nhiên, các nhà sản xuất có thể thay đổi quan điểm nếu Mỹ tăng xuất khẩu khí đốt.
Chương trình giải cứu kinh tế Ukraine thất bại
Việc từ chối khí đốt Nga sẽ làm tăng giá khí đốt tại châu Âu. Trong trường hợp này sự hỗ trợ dành cho Ukraine sẽ bị giáng một đòn đau vì tài trợ cho giá khí đốt cao, Kiev cần rất nhiều tiền. Nỗ lực tăng giá khí đốt một lần nữa tại Ukraine có thể gây nên làn sóng cách mạng mới hay làm tăng số tiền nợ, làm giảm thu nhập thực tế của người dân vì phải trả tiền mua khí đốt nhiều hơn.
Nga "cười tươi" vì "ngư ông đắc lợi"
Cấm vận dầu mỏ Nga sẽ đem đến những khó khăn thực sự với các nước châu Âu. Ngược lại, điều này cho phép Chính phủ Nga vui mừng hơn vì họ sẽ khôi phục tương đối nhanh chóng nguồn thu dầu mỏ bằng cách chuyển hướng xuất khẩu sang các nước khác, và hưởng lợi "đậm hơn" nhờ giá bán trên thị trường cao. Áp đặt các biện pháp trừng phạt này hầu như không có ý nghĩa thực tế.
Ngoài ra sau khi tái định hướng xuất khẩu sang các nước châu Á, Chính phủ Nga đã có thể bổ sung thêm thu nhập nhờ giá dầu tăng. Cân đối về trung hạn, ngân sách Nga sẽ có lợi từ thay đổi này.
Hơn nữa, khi Nga đẩy mạnh xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt cho châu Á, việc giao dịch bằng những đồng tiền khu vực (Nhân dân tệ, Yên Nhật...) sẽ tăng lên và giảm sự phụ thuộc của các nước này vào đồng USD.
Điều gì sẽ xảy ra nếu các nền kinh tế hùng mạnh như Trung Quốc, Nhật Bản giảm phụ thuộc vào đồng USD thì Mỹ biết rõ hơn ai hết và chính họ là người phải hoảng sợ.
Các tập đoàn dầu khí toàn cầu bị vạ lây
Dù Gazprom hầu như ít cạnh tranh với các công ty Mỹ, tập đoàn này có rất nhiều dự án chung với các tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới như Royal DutchShell, Exxon Mobil. Trừng phạt Gazprom có thể gây tổn hại nghiêm trọng tới các doanh nghiệp này, không cho phép họ tiếp cận các dự án giàu tiềm năng của Nga như Sakhalin -2. Trong trường hợp các tập đoàn này rút lui, thay thế họ có thể là các doanh nghiệp dầu khí Trung Quốc và rốt cuộc khiến những Royal Dutch Shell hay Exxon Mobil mất vị trí hàng đầu trên thị trường.
Lợi ích địa chính trị của Mỹ có thể khiến các tập đoàn lớn phải trả giá quá đắt, vì vậy các tập đoàn này sẽ gây sức ép mạnh mẽ lên Nhà Trắng bằng cách vận động hành lang ở Washington để ngăn các quyết định như vậy.
Mất đi sự ủng hộ tại châu Âu
Các chính trị gia châu Âu tính rằng trừng phạt Gazprom sẽ khiến giá khí đốt tăng. Mức tăng phụ thuộc vào các biện pháp châu Âu áp dụng để giảm ảnh hưởng của Gazprom trên thị trường. Nếu nguồn cung khí đốt Nga bị hạn chế, lượng khí đốt bổ sung lấy từ đâu?
Trong vấn đề này, mới đây Hà Lan cho biết sản lượng khai thác khí đốt sẽ giảm mạnh, do các nguyên nhân sinh thái và tình trạng dự trữ giảm sút không thể đảo ngược, khi chính phủ các nước muốn bảo vệ trữ lượng cho nhu cầu nội địa lâu nhất có thể. Giá khí đốt Na Uy sẽ tăng do việc phát triển các mỏ khí mới trở nên phức tạp và tốn kém hơn, còn Anh, nước nhập khẩu khí đốt Na Uy nhiều nhất, có kế hoạch tăng khối lượng cung cấp lên tới 30%.
Trong khi đó, Qatar không ngừng tăng khối lượng xuất khẩu sang châu Á, nơi nước này có thể có thu nhập cao hơn 80% nhờ giá xuất khẩu LNG tương đương 1.000 tỷ m3 khí đốt.
Ngoài ra, Algeria đang đẩy mạnh cầu trong nước, và nỗ lực duy trì quan hệ gần gũi với Gazprom để thực hiện các dự án trong tương lai. Khối lượng khai thác của nước này dường như cũng đã đạt đỉnh. Toàn bộ trữ lượng khí đốt của Algeria là khoảng 4.000 tỷ m3, tương đương với 5-6 năm cung cấp khí đốt cho Ukraine hay Thổ Nhĩ Kỳ. Trữ lượng này không thể giải quyết vấn đề khí đốt của EU xét theo chiến lược lâu dài.
Azerbaijan cũng vậy, dù tham gia sâu vào "Hành lang khí đốt phương Nam" và cung cấp khí đốt cho Thổ Nhĩ Kỳ và EU theo tuyến đường ống TANAP-TAP, nước này chỉ có trữ lượng đã được thẩm định là 1.000 tỷ m3 khí đốt, trong khi nhu cầu nội địa gia tăng. Điều này có nghĩa là Azerbaijan có thể chào bán khí đốt cho Georgia, Thổ Nhĩ Kỳ hay thậm chí là Hy Lạp, Bulgaria, song không thể cung cấp khí đốt cho châu Âu trong trung hạn.
Các nước có vai trò lớn khác, như Turkmenistan và Uzbekistan, đang tập trung vào thị trường Trung Quốc khổng lồ, và có quan hệ mật thiết với Nga, cả về kinh tế và chính sách.
Châu Âu có thể ở trong tình thế khó khăn, và do chính sách ủng hộ Mỹ, họ có thể mất đi sự ủng hộ, khiến cho một số "tiền đồn" lớn ở châu Âu có thể bị thay thế bởi những chính trị gia có quan điểm thân Nga hay những người thực dụng không ủng hộ Mỹ khi lợi ích bị ảnh hưởng.
Mất ảnh hưởng địa chính trị trong khu vực
Ảnh hưởng địa chính trị của Mỹ tại khu vực Địa Trung Hải có thể bị đe dọa. Hiện chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ rất không hài lòng với hành động của Mỹ, và xích lại gần Nga. Hơn nữa, vấn đề khí đốt là phương sách chủ chốt để cũng cố mối quan hệ hợp tác kinh tế.
Thổ Nhĩ Kỳ và Nga đã quyết định tăng công suất chuyển tải của tuyến đường ống "Dòng chảy màu Xanh" lên 19 triệu m3, so với mức 16 triệu m3 hiện nay. Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ đưa ra quyết định xây dựng tuyến đường ống "Dòng chảy phương Nam" trên lãnh thổ nước này, trong trường hợp các chính phủ châu Âu ngăn hoạt động xây dựng đó. Trong trường hợp này có thể nói đến sự hội nhập sâu rộng giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ trong vấn đề năng lượng.
Theo VNE
Việt Nam sắp đón siêu dự án 20 tỷ USD từ Mỹ Ngày 15/3, tin từ Bộ Công Thương cho biết, Tập đoàn Exxon Mobil (Mỹ) đang xúc tiến kế hoạch đầu tư cụm khí điện lên tới 20 tỷ USD tại Việt Nam. Việc khảo sát, lựa chọn địa điểm đã được tiến hành. Trong tháng tới, Exxon Mobil sẽ trình các văn bản liên quan đến dự án (đánh giá về trữ lượng...