Bức ảnh vô giá của nhân chứng lịch sử ngày 30/4/1975
Tuổi đã cao, di chứng của chiến tranh khiến trí nhớ người cựu binh Trần Viết Cả không còn minh mẫn. Thế nhưng chỉ cần nhìn bức ảnh lịch sử ông cùng đồng đội chứng kiến Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thời khắc lịch sử ấy như sống lại.
Chỉ vào bức ảnh tư liệu quý giá đã ngả màu theo thời gian được một nhà báo Pháp chụp lại vào trưa 30/4/1975, tại Đài Phát thanh Sài Gòn, chứng kiến thời điểm Tổng thống nội các Sài Gòn Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, ông Trần Viết Cả (SN 1950, thôn Hợp Linh, xã Quảng Hợp, Quảng Xương- Thanh Hóa) đọc rõ tên những người đồng đội cùng có mặt trong bức ảnh. Ngoài Đại úy Phạm Xuân Thệ là các chiến sĩ Phùng Bá Đam, Trịnh Ngọc Ước,… Trung tá Trần Viết Cả gầy gò nhưng rắn rỏi, đứng bên trái bức hình, đầu đội chiếc mũ tai bèo, khuôn mặt đầy hân hoan, hạnh phúc.
Trung tá Trần Viết Cả nguyên là Trung đội trưởng Đội trinh sát của Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2. Năm 1968, Trần Viết Cả mới tròn 17 tuổi đã xung phong tham gia quân đội. Sau 3 tháng huấn luyện cơ bản, Trần Viết Cả được gia nhập Đại đội trinh sát, Sư đoàn 304 và tham gia vào mặt trận B5. Đây là mặt trận Trị Thiên – Huế, có vị trí chiến lược quan trọng, tiếp giáp khu vực Vĩnh Linh, có đường chiến lược 12 (nhánh phía bắc hệ thống), đối đầu trực tiếp với Vùng chiến thuật I, Quân đoàn I của Mỹ.
Ông Cả nhớ lại ngày giải phóng miền Nam, đất nước độc lập
Ông kể: Là lính chiến nhưng chỉ tập luyện 3 tháng, lúc đó, chiến trường cần lực lượng bổ sung, thế là vừa đi vừa huấn luyện vừa đánh. Những năm chiến đấu ác liệt, bàn chân này đã đặt đến các vùng chiến trường như Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam…
Đặc biệt, trong trận đánh vô cùng ác liệt ở căn cứ Nước Trong (Đồng Nai), ông suýt mất mạng vì đạn pháo 155 li của địch. “Lúc anh em chúng tôi tiến công vào căn cứ Nước Trong, địch phát hiện và chúng điên cuồng nã đạn pháo 155 li tứ phía. Nhiều đồng đội của tôi hy sinh. Còn tôi chỉ bị thương nhẹ khi một quả đạn rơi cách tôi chừng hơn hai mét, nhưng nó lại rơi trúng vào một ụ đất to, nếu không chắc tôi cũng không sống được” – người cựu binh già nhớ lại.
Thế nhưng vào trưa 28/4, không trụ nổi trước thế tiến công mãnh liệt của quân ta, địch ở căn cứ Nước Trong bỏ chạy, đơn vị của ông làm chủ trận địa, mở thông đường hành quân tiến vào nội đô.
Sau trận đánh căn cứ Nước Trong, đơn vị ông được lệnh sáp với Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2, tiến công vào Sài Gòn để chiếm đánh Đài Phát thanh. Sáng ngày 30/4/1975, người Trung đội trưởng trinh sát Trần Viết Cả cùng đơn vị hành quân, với nhiệm vụ đánh chiếm Đài Phát thanh Sài Gòn.
Ông Cả đứng đầu tiên (bên trái, đội mũ tai bèo) chứng kiến thời khắc lịch sử Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng
Ông nhớ lại: “Dù là lính trinh sát dạn dày kinh nghiệm, trải qua không biết bao nhiêu trận đánh và địa hình ở các chiến trường, nhưng chúng tôi thực sự bối rối ở ngã tư Hàng Xanh, cửa ngõ Sài Gòn, vì không biết đường. Nơi đô thị này đường sá rộng lớn và tấp nập quá, khác hẳn đường rừng quen thuộc mà chúng tôi có thể hành quân trong đêm tối. May mắn là nhân dân rất ủng hộ Quân giải phóng, hỏi người dân nào cũng được chỉ lối tiến vào Đài Phát thanh gần và nhanh nhất. Nhiều người thậm chí còn theo đoàn quân đến tận khúc rẽ”.
Video đang HOT
Khoảng hơn 9 giờ ngày 30/4/1975, đơn vị trinh sát đã áp sát Đài Phát thanh Sài Gòn. “Khi chúng tôi tiến vào Đài Phát thanh, lúc ấy lính ngụy chạy tán loạn vì không còn khả năng kháng cự. Đơn vị chúng tôi nhanh chóng chiếm giữ đài, đồng thời phân công anh em trong đơn vị chia nhau cắm chốt, bảo vệ toàn bộ hiện trạng cơ quan này. Chừng 1 giờ sau đó, Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ và các chiến sĩ khác đưa Dương Văn Minh đến Đài Phát thanh để tuyên bố đầu hàng vô điều kiện” – ông nhớ lại.
Chiếc xe tăng 390 húc đổ cánh cửa sắt, chiếc xe Zeep chở Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ chạy thẳng vào sân dinh. Ông Dương Văn Minh nhanh chóng được dẫn vào phòng thu âm. Thế nhưng, lúc ấy, thiết bị của Đài bị hỏng, không phát đi lời tuyên bố ấy được.
“Thủ trưởng Phạm Xuân Thệ hỏi những người có mặt xem có ai biết nhân viên kỹ thuật ở đâu, thì một nhà báo nói biết, nên tôi được cử đi cùng để tìm người đó. Đến nhà người nhân viên ấy, tôi mời anh ta đến Đài Phát thanh để sửa chữa hệ thống kỹ thuật phát thanh nhưng người thân của anh không cho đi vì lo sợ cho tính mạng anh ấy. Tôi phải giải thích, hứa sẽ bảo đảm an toàn tính mạng cho anh và đưa anh về nhà sau khi đã sửa xong hệ thống phát thanh, lúc ấy mọi người mới yên tâm cho anh ta đi” – ông Trần Viết Cả nhớ lại.
Ông Cả (mũ tai bèo) cùng đồng đội hân hoan trong ngày giải phóng
Sau khi hệ thống Đài Phát thanh Sài Gòn được sửa xong, đúng 11h30 phút, Tổng thống Dương Văn Minh bắt đầu đọc bản tuyên bố đầu hàng Quân giải phóng miền Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chính thức sụp đổ.
Cho đến bây giờ khi nhắc lại giây phút chứng kiến thời khắc bàn giao chính quyền lịch sử và thiêng liêng ấy, ông Cả vẫn bồi hồi xúc động. Hạnh phúc hơn là sau này, bức ảnh ghi lại cảnh ông cùng đồng đội trong thời khắc lịch sử đó cũng bất ngờ được gửi về cho ông. Ông nâng niu và cất giữ bức ảnh cẩn thận như báu vật vô giá suốt mấy chục năm nay.
Nguyễn Thùy
Theo Dantri
Kí ức của người lính xe tăng 390
Thời điểm chứng kiến nội các của Dương Văn Minh đầu hàng, ông Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ số 1 xe tăng 390, lúc đó canh gác ngoài phòng họp tại Dinh Độc lập ngày 30/4/1975, dâng trào xúc động vì Chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn toàn thắng lợi, đất nước thu về một mối.
Nhập ngũ vào tháng 8/1971, lúc mới 18 tuổi, sau thời gian huấn luyện bộ binh khoảng 2 tháng, chàng trai trẻ Ngô Sỹ Nguyên được chuyển sang đơn vị tăng thiết giáp và được làm pháo thủ của xe tăng 390.
4 người lính xe tăng 390 chụp kỷ niệm tại phiên bản xe 390 (ông Nguyên, là người thứ 2 từ phải sang trái). Ảnh do nhân vật cung cấp.
Xe tăng 390 gồm có trung úy Vũ Đăng Toàn là chính trị viên đại đội; lái xe là trung sĩ Nguyễn Văn Tập; pháo thủ số 1 là trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên; phó đại đội trưởng kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2, thiếu úy Lê Văn Phượng (lên thay pháo thủ số 2 bị thương).
Ngày 15/3, Lữ đoàn 203 xuất phát từ A Lưới (Huế) đi theo đường 14B, thị trấn Khe Tre, huyện Nam Đông, Thừa Thiên - Huế xuống đánh Núi Bông, Núi Nghệ và Mỏ Tàu và tiếp tục tiến đánh ra Huế.
"Ngày 25/3, chúng tôi đã tiến vào giải phóng Huế, sau đó được lệnh ra cửa Thuận An để chặn đường rút chạy của quân ngụy", ông Nguyên nhớ lại.
Ngày 28/3, đơn vị ông Nguyên tiến vào giải phóng Đà Nẵng, sau đó tiếp tục củng cố đội hình hành quân theo miền duyên hải, đánh địch trong hành tiến.
Ngày 26/4, bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, đơn vị của ông Nguyên được lệnh đánh mở đường vào căn cứ quân sự Nước Trong, nơi có trường sĩ quan thiết giáp của địch. Tới 12 giờ ngày 28/4, đơn vị đã giải phóng toàn bộ căn cứ Nước Trong, tạo mũi thọc sâu cho Quân đoàn 2.
"Lúc này đã rất gần Sài Gòn, hơn ai hết, những người lính tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh cảm nhận được ngày đất nước thống nhất đã đến rất gần. Trước đó, Chính ủy Lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng đã căn cứ vào bản đồ xe buýt Sài Gòn cho đắp sa bàn để những người lính chúng tôi dễ hình dung về hướng đi vào Sài Gòn", ông Nguyên kể.
Sáng 30/4, Tiểu đoàn 1 do đồng chí Ngô Văn Nhỡ làm tiểu đoàn trưởng được giao nhiệm vụ chủ công mở đường vào Sài Gòn. Tuy nhiên, từ tổng kho Long Bình, qua cầu Đồng Nai, ngã ba Thủ Đức, ngã ba Thủ Dầu Một đến cầu Sài Gòn, địch chống trả rất quyết liệt.
"Lúc đó là tờ mờ sáng, đạn bay rít xung quanh, tuy nhiên không ai nao núng. Khi nghe tin đồng chí Tiểu đoàn trưởng Ngô Quang Nhỡ hy sinh khi chỉ huy càng khiến đơn vị quyết tiến lên", ông Nguyên nói tiếp.
Xe tăng đi đầu tiên của tiểu đoàn mang số hiệu 866 do đồng chí Lê Tiến Hùng phụ trách, nhưng qua cầu Sài Gòn thì bị trúng đạn của địch.
Xe tăng 390 đi ngay sau vẫn tiếp tục tiến lên giữa sự phản kích quyết lịch của địch, vừa đi vừa phối hợp với các xe tăng khác hợp đồng tác chiến, dập tắt các điểm hỏa lực của địch. Khi tới ngã tư Hàng Xanh, lực lượng phản kích của địch gồm có xe M113, xe bọc thép và GMC đánh trả ác liệt.
"Vừa nhìn thấy lực lượng địch, đồng chí Toàn và Tập hô: "Nguyên, Nguyên... mục tiêu!". Bình tĩnh ngắm bắn, tôi đã tiêu diệt 2 xe M113 và nhiều GMC chở lính địch", ông Nguyên nhớ lại.
"Vượt qua Hàng Xanh thì đường phố vắng hoe, xe chúng tôi tiếp tục tiến lên theo trí nhớ về hướng dẫn sa bàn trước đó. Đến một ngã tư, chúng tôi hỏi đường, họ bảo lạc rồi nên quay lại. Chúng tôi lùi lại và chuyển hướng tiến về Dinh Độc lập, gặp xe tăng 843 của trung úy Bùi Quang Thận ở phía trước", ông Nguyên kể.
"Xe của đồng chí Thận đang đi thì rẽ sang cổng trái rồi khựng lại ở cổng Dinh Độc lập. Thấy vậy, đồng chí Tập lái xe hỏi có nên vào hay dừng lại, thì đồng chí Toàn nói: "Cứ tông vào đi". Ngay lập tức, lái xe Tập nhấn ga vọt lên, húc tung cánh cổng chính của Dinh Độc lập và tiếp tục tiến thẳng vào sân. Chúng tôi vào trong sân, một đội hình xe tăng bọc thép của địch còn nguyên. Ngoảnh lại phía sau, chúng tôi thấy đồng chí Thận cầm cờ chạy theo xe tăng 390. Sau đó xe tăng 390 chạy chậm lại và yểm trợ đồng chí Thận. Đồng chí Toàn, trưởng xe 390 cũng cầm theo khẩu AK nhảy xuống xe chạy theo đồng chí Thận", ông Nguyên kể lại.
Pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên trên xe tăng 390 (ảnh do nhân vật cung cấp).
Vào đến Dinh Độc lập, Chính trị viên Toàn dồn tất cả nội các của Dương Văn Minh vào trong phòng lớn. Lúc này, trung úy Ngô Sỹ Nguyên cũng lên tới nơi và đứng gác ở cửa phòng. Lái xe Nguyễn Văn Tập ở lại giữ xe tăng, thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi trong xe giữ khẩu 12 ly 7 chĩa lên phía lá cờ trên nóc dinh để yểm trợ cho Bùi Quang Thận cắm cờ.
Sau khi anh Thận cắm cờ, nhiều người lính chúng tôi cảm xúc dâng lên khó tả.
Nhiều người hô: "Giải phóng đất nước rồi các đồng chí, các bạn ơi. Còn gì sung sướng bằng! Tất cả đều vỡ òa niềm vui trong nước mắt", ông Nguyên xúc động nhớ lại.
Khoảng một tiếng sau, Đại đội 4 của ông Nguyên nhận lệnh ra cảng Bạch Đằng để bảo vệ cảng, kho hàng. Ở đó chừng 4 - 5 hôm, đại đội rút về tổng kho Long Bình, đóng doanh trại, xây dựng đơn vị, sửa chữa xe, lau chùi súng pháo, bổ sung đạn dược, xăng dầu... sẵn sàng chiến đấu.
"Cứ mỗi dịp tháng 4 về, dư âm của những ngày tháng 4 năm 1975 lại ùa về. Chúng tôi rất tự hào vì kíp xe tăng 390 lúc đó đã góp phần nhỏ bé để giải phóng đất nước", ông Nguyên tự hào tâm sự.
Xuân Minh
Theo Dantri
"Thà hy sinh trên mâm pháo chứ quyết không để sập cầu" Trong chiến thắng Hàm Rồng cách đây 50 năm có một phần công sức không hề nhỏ của những dân quân làng Từ Quang. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng với những cựu dân quân làng Từ Quang, cuộc chiến bảo vệ cầu Hàm Rồng là một ký ức không thể nào quên. Trận địa cầu Hàm Rồng - Thanh Hóa từng được...