Bông sậy, cây nhàu, trái giác tưởng vứt đi mà lại thành “cứu tinh”
Rừng U Minh là vùng đất trù phú và màu mỡ, từ vùng đất này, nhiều loại cây hoang dại đã sinh sôi, phát triển, điển hình là dây giác, cây sậy và cây nhàu. Trước đây, các loại cây này người dân rất ít quan tâm đến, nhưng nay thì khác, các loại cây này không chỉ tạo việc làm ổn định mà còn mang đến nguồn thu nhập tương đối lớn, giúp nhiều hộ dân thoát nghèo.
Bông sậy khi vào mùa mang về nguồn thu nhập khá lớn cho người dân dưới tán rừng U Minh Hạ.
Cách đây khoảng 8 năm, trái giác được người dân ở Ấp 4, xã Khánh Thuận xem như “cứu tinh”, giúp họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Hái trái giác trở thành nghề của đông đảo người dân nghèo nơi đây. Hằng năm, bước vào tháng 6, tháng 7 âm lịch là người dân trên địa bàn Ấp 4 bước vào mùa hái trái giác cho đến cuối tháng 11 âm lịch.
Vào những ngày này, gia đình ông Nguyễn Văn Ngoán bắt tay vào mùa hái trái giác. Gia đình ông Ngoán thuộc diện khó khăn nên những năm qua cuộc sống của vợ chồng ông phụ thuộc rất lớn vào việc hái trái giác.
Ông Ngoán cho biết: “Bây giờ mới vô mùa, giác chưa chín nhiều, lại lớn tuổi nên mỗi ngày vợ chồng tôi hái được từ 40-50 kg trái giác, mỗi ký bán được 8.000 đồng, sau khi trừ chi phí còn được từ 250.000-300.000 đồng, vào chính vụ mỗi ngày vợ chồng tôi kiếm cũng được từ 500.000-600.000 đồng. Nhờ có trái giác mà cuộc sống gia đình tôi cải thiện đáng kể, mua được nhiều vật dụng sinh hoạt trong gia đình, đời sống cũng thoải mái hơn trước rất nhiều”.
Mỗi ngày một người có thể hái hàng chục ký trái giác, thu nhập từ 200.000-250.000 đồng. Vào chính vụ, mỗi người có thu nhập từ 300.000-400.000 đồng/ngày.
Ông Danh Riêng cho biết: “Hiện trái giác được thu mua làm rượu, kẹo, mứt và sirô nên nhu cầu về trái giác nguyên liệu rất lớn, người dân không phải lo đầu ra. Do hút nguồn nguyên liệu nên tới đây sẽ có nhiều cơ sở từ tỉnh khác đến mua, có sự cạnh tranh nên giá có thể sẽ tăng cao hơn. Để thu mua hiệu quả, thời gian tới tôi sẽ mở thêm cơ sở ở xã Nguyễn Phích để gom trái giác cho bà con nơi đây, khi ấy số người có thu nhập từ trái giác trên địa bàn huyện U Minh cũng sẽ tăng lên”.
Video đang HOT
Gia đình anh Nguyễn Văn Thắng là một trong những hộ nghèo của Ấp 4, ít đất sản xuất lại đông con nên trước đây cuộc sống gia đình và chuyện học hành của các con anh gặp rất nhiều khó khăn, nhưng kể từ khi hái trái giác, rồi chuyển sang hái nhàu, cuộc sống gia đình anh dần được cải thiện.
Cây nhàu được biết đến như một loại dược liệu dễ tìm ở các vùng nông thôn, có tác dụng rất tốt trong việc điều trị bệnh viêm loét dạ dày, tá tràng, hen suyễn, viêm khớp, tiểu đường… Ảnh: I.T
Anh Thắng chia sẻ: “Hái nhàu khoẻ hơn hái trái giác rất nhiều, mau có ký hơn, giá cũng tương đối cao. Vào mùa khô nhàu tươi có giá từ 12.000-14.000 đồng/kg, mùa mưa mỗi ký cũng 8.000-9.000 đồng. Dù mùa mưa giá có xuống thấp nhưng cũng khá lý tưởng đối với người dân nghèo như chúng tôi.
Trước đây, khi mới bắt đầu, giá trị của trái nhàu chưa ai biết đến nên xung quanh còn rất nhiều, nhờ vậy mỗi ngày tôi hái bán được từ 1-2 triệu đồng, giờ ai cũng biết, bảo vệ hết nên mình phải đi xa hơn, vào sâu trong rừng, hay mua về bán lại kiếm lời, mỗi ngày vợ chồng tôi kiếm được từ 800.000-1 triệu đồng. Nhờ vậy cuộc sống gia đình và chuyện học hành của các con tôi 2 năm nay được cải thiện đáng kể”.
Hiện nay, do có giá nên dây giác, cây nhàu được nhiều hộ dân trên địa bàn Ấp 4, xã Khánh Thuận trồng, đặc biệt là cây nhàu. Bà Phạm Thị E là một trong những người tiên phong thực hiện mô hình.
Trái nhàu được phân theo ô và phơi từ 6-7 ngày mới đủ độ khô. Trái nhàu được các thương lái thu mua rồi giao cho các công ty tại TP Hồ Chí Minh để tạo ra các sản phẩm như trà nhàu, bột nhàu, rượu nhàu… cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu sang các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản. Ảnh: baocamau
Bà E chia sẻ: “Do thấy trái nhàu có giá nên 2 năm trước tôi thử trồng trên bờ vuông, thấy nó phát triển tốt và cho trái sai nên tiếp tục nhân rộng. Giờ đây tôi ươm được cây giống nên mô hình phát triển khá nhanh, hiện tại cho trái khoảng 200 cây, còn gần 300 cây đang trong giai đoạn 1 năm tuổi. Tôi thấy mô hình này mang lại hiệu quả cao nên tôi sẽ tiếp tục nhân rộng trong thời gian tới”.
Ông Trần Văn Triều, Trưởng Ấp 4, cho biết: “Những năm qua, nhờ hái trái giác, trái nhàu hay bông sậy bán mà đời sống người dân nơi đây nâng lên rất nhiều. Cộng với sự trợ lực của các cấp, các ngành, năm qua ấp có 19 hộ thoát nghèo, năm nay dự định sẽ tiếp tục có thêm 15 hộ thoát nghèo. Tin rằng thời gian tới, đời sống của người dân trên địa bàn huyện U Minh nói chung, Ấp 4, xã Khánh Thuận nói riêng sẽ cải thiện đáng kể”.
Theo Trần Thể (Báo Cà Mau)
"Chúa ong" ở xứ sở "chín tầng mây"
Nếu người dân rừng U Minh có lối gác kèo để ong rừng đến ở thì người Xê Đăng xã Ngọc Yêu (huyện Tu Mơ Rông, Kon Tum) cũng có cách "nuôi" ong khá độc đáo: Dùng bọng cây rừng tạo tổ dụ ong về làm mật. Nét "văn hóa rừng" hiếm hoi giữa thời văn minh kim khí này kể cũng là điều lý thú...
A Néo đi trước tôi một quãng ngắn. Con dao sắc như nước thỉnh thoảng lại lóe lên dứt phăng nhánh cây ngáng đường. Chiếc gùi trên vai anh toòng teng cây rìu nhỏ, gói đựng túi nilon và nắm muối hạt. Hành trang "đi làm mật" của "chúa ong" chỉ giản đơn có thế...
Sản phẩm mật ong rừng chính hiệu Ngọc Yêu. Ảnh: N.T
Chúng tôi nhằm hướng núi Đăk Trum tiến tới. Với độ cao trung bình 1.000m so với mực nước biển, vùng đất Tu Mơ Rông dễ đến hai phần ba tiết trời trong năm cứ sáng thu chiều đông như vậy. A Néo bảo đấy chính là lý do xứ này không bao giờ có những tổ ong lủng lẳng trên cành cây như nơi khác. Chúng phải làm tổ trong hốc để tránh cái lạnh. Sự se sắt của hoa cỏ xứ sâm khiến mật ong Ngọc Yêu được coi là tinh chất đầu bảng của đại ngàn...
Kỳ thú chuyện nghề
Trước mắt tôi là cây trám lực lưỡng đứng bên bờ suối rộng. A Néo lấy rìu gõ nhẹ vào thân cây, tức khắc hàng chục con ong túa ra từ một lỗ nhỏ trên miếng ván cách mặt đất chừng 2m. Néo giải thích: Cây trám này vốn có bọng sẵn, mình chỉ bổ ra cho rộng; sau đó dùng miếng ván trám lại vừa đủ cho con ong ra vào. Khi nào thăm ong hoặc lấy mật thì cạy cửa ra... Rồi A Néo kể: Trước Tết Nguyên đán, dân làm mật lũ lượt vào rừng sửa sang, cải tạo các bọng cây, gọi là "đục lỗ đón ong". Rừng thì vô vàn cây nhưng không phải giống nào cũng có bọng; lại phải tìm cho được thứ cây chúng thích. Lũ ong rừng rất khó tính. Chúng không bao giờ làm tổ trong loại cây có nhựa, ẩm ướt. Đặc biệt vị trí phải gần suối, miệng tổ phải ở hướng ngược dòng nước chảy. Hốc tổ không được quá cao nhưng cũng không được quá thấp. Cao quá thì nhiều nắng gió; thấp quá thì ẩm ướt... Nói ai cũng biết nhưng cùng làm đúng như vậy mà có hốc hàng bao năm trời chẳng chú ong nào mon men; ngược lại có hốc năm nào chúng cũng ở. Thế nên đục cả trăm mà được hai, ba chục hốc có ong là mừng rồi. Như mình, đục tới 300 nhưng chỉ hơn 100 hốc có ong là nhất đấy. Người ta bảo A Néo "hợp vía" con ong, mình thì nghĩ nhờ đoán chính xác sở thích của chúng mà được đó thôi... Sau hơn tháng đi đục lỗ, qua tháng 2, tháng 3 người ta quay lại xem hốc nào có ong tới thì đánh dấu, gọi là "thăm ong". Tháng tư, tháng năm khi tiết trời tạnh ráo, hoa cỏ mãn khai là mùa đi thu mật. Vào nhà ai cũng nghe thoang thoảng hương vị mật ong...
Một tổ ong của A Néo ở rừng Đăk Trăm, năm ngoái thu được 5 lít mật. Ảnh: N.T
Tôi cứ đinh ninh nghề nuôi ong là bảo bối truyền đời của một nghề có tự xa xưa, hóa ra chỉ mới từ năm 1980 trở lại đây - và A Néo chính là người đầu tiên nghĩ ra cách nuôi ong kỳ thú ấy, đúc kết thành kinh nghiệm rồi truyền cho dân làng...- "Cũng là tình cờ thôi mà - A Néo cười. Ngày trước mật ong đầy rừng ai ăn cho hết. Mỗi lít mật chỉ đổi được...một chiếc quần đùi. Nhưng rồi đường sá mở ra, người buôn vào tận nhà thu gom mua khiến mật ngày càng có giá. Trong một lần đi săn ong mình chợt nghĩ: sao không cải tạo các hốc cây có sẵn để dụ chúng về ? Vậy là làm.
Thấy mình kiếm được khá tiền, bà con học theo. Lúc đầu chỉ làng Long Láy, giờ thì cả 8 làng với khoảng 180 hộ cùng làm...
Cuộc chiến giành đặc sản giữa người và... gấu
Người nhiều kẻ ít nhưng xem ra "làm mật ong" cũng là nghề làm chơi ăn thật? Nghe tôi nhận xét, A Néo cười: Nhìn thì vậy nhưng có làm mới biết. Tìm được hốc cây để lũ ong rừng chịu đến như kể với anh đã khó rồi, lại phải không được đụng chạm đến ai. Người Xê Đăng có luật bất thành văn: thứ gì trong rừng đã có chủ, ai đến sau không được đụng chạm. Bởi vậy, người đi làm mật phải tới tận Măng Bút giáp giới Quảng Nam, ở lại trong rừng cả tháng. Sên vắt, ruồi vàng cắn da thịt cũng chẳng là gì so với nỗi sợ gặp gấu. Rừng nhiều mật nên nhiều gấu mà chủ yếu là lũ gấu ngựa. Mình chạm trán chúng như cơm bữa...Một lần đi thăm ong thấy tổ đầy mật, hôm sau hăm hở mang gùi đến thì đã thấy một chú gấu vắt vẻo trên chạng cây.
Vừa nhấm nháp mật nó vừa bình thản nhìn mình như chế nhạo "ông là kẻ đến sau rồi"... Lần khác mình vừa leo tới tổ thì bỗng đâu một chú gấu cũng lừ lừ tới trèo lên. Hoảng quá nhưng chẳng còn đường nào chạy, mình đành trèo tít lên ngọn cây.
Mới 4 giờ chiều đỉnh Đăk Trum đã nhòa dần, vương vít trong làn sương chợt đến chợt đi như khói thoảng. Thập thững từng bước chân xuống núi sau gần một ngày được thấy, được nghe những điều kỳ thú, tôi chợt nhận ra lối kiếm sống dựa vào tự nhiên, nâng đỡ tự nhiên để cùng sinh tồn tự ngàn xưa ở xứ này hãy còn rất bền chặt.
A Năng nói rằng những khu rừng mà người dân làm tổ ong được chính họ bảo vệ rất nghiêm ngặt. Lẽ giản đơn là nếu để cây rừng bị chặt phá thì ong sẽ không về. Và như vậy xem ra cái nghề mang màu sắc cổ sơ này sẽ còn tồn tại lâu dài...
Theo Danviet
Ông Đoàn Ngọc Hải: Câu "về U Minh sống" phải được hiểu trong bối cảnh Phó chủ tịch UBND quận 1 (TP.HCM) cho rằng câu nói của ông phải được hiểu đúng và đặt vào bối cảnh sự việc chứ không phải diễn giải theo hướng không đúng đắn của một số ít người. Tiếp sau thư xin lỗi của Bí thư quận 1, Phó chủ tịch UBND quận 1 Đoàn Ngọc Hải vừa có thư hồi đáp...