Bon bon trên cao tốc là đang lăn bánh lên “thảm đô la”
Từ năm 2010 đến nay, suất đầu tư cho một kilômét đường cao tốc có nơi lên đến 25,8 triệu USD. Cho nên, du Xuân bon bon trên những con đường cao tốc, mỗi người cũng nên ý thức rằng bánh xe đang lăn trên một thảm đô – la.
Theo tổng hợp của Bộ Giao thông vận tải (GTVT), giá thành đầu tư xây dựng đường cao tốc với bốn làn xe cao hay thấp tùy thuộc vào từng vùng có dự án đi qua. Giai đoạn 2005 – 2010, suất vốn đầu tư trung bình khu vực đồng bằng là 8,1 triệu USD/km. Tuy nhiên, số tiền đầu tư đã có sự thay đổi kể từ năm 2010 đến nay.
Đối với khu vực miền núi, trung du phía Bắc, tính trung bình chi phí đầu tư là 6,2 triệu USD/km; khu vực miền Trung là 9,5 triệu USD/km. Riêng khu vực đồng bằng, suất đầu tư trung bình 14,6 triệu USD/km, trong đó cá biệt tuyến Bến Lức – Long Thành có suất đầu tư 25,8 triệu USD/km.
Tuyến cao tốc này cần phải có nguồn vốn lớn như vậy là do phải xây dựng khoảng 25,7km cầu trên tổng số 57,8km chiều dài tuyến, trong đó gồm hai cầu dây văng Bình Khánh và Phước Khánh.
Suất đầu tư cho đường cao tốc tại Việt Nam, theo nhiều chuyên gia không phải là quá lớn so với các nước. Theo đó, nếu so sánh với Hàn Quốc và Trung Quốc đối với những tuyến đường cao tốc đã và đang triển khai tại Việt Nam thì giá thành đầu tư xây dựng tương đương với những nước này.
Trong một báo cáo trước đây của Bộ Xây dựng gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ này cũng đã lý giải nguyên nhân có thể làm tăng suất vốn đầu tư của các tuyến đường này.
Bộ Xây dựng cho rằng, có nhiều nguyên nhân chính làm cho suất vốn đầu tư bình quân giữa các vùng miền, giữa các dự án có sự chênh lệch lớn và phụ thuộc vào các yếu tố chính như khối lượng xây dựng công trình cầu, khối lượng xử lý nền đất yếu, khối lượng giải phóng mặt bằng. Nếu không tính đến các yếu tố này thì chi phí xây dựng không chênh lệch nhiều, bình quân khoảng 8 triệu USD/km đường ô tô cao tốc 4 làn xe.
Video đang HOT
Cụ thể, so với mặt bằng giá quý II/2012 thì suất vốn đầu tư xây dựng đường cao tốc 4 làn xe tại Việt Nam đối với khu vực miền núi, trung du phía Bắc có suất vốn đầu tư bình quân 7,4 triệu USD/km. Khu vực miền Trung và Nam Trung bộ bình quân 10,5 triệu USD/km. Khu vực Đồng bằng Bắc bộ bình quân khoảng 10,6 triệu USD/km. Còn khu vực Đồng bằng Nam bộ bình quân 17,2 triệu USD/km.
Theo Bộ Xây dựng, suất vốn đầu tư các dự án xây dựng đường ô tô cao tốc đã và đang triển khai thực hiện trong thời gian qua tại Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Một trong những lý do rất “đặc trưng” của điều kiện nước ta là là do điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn phức tạp nên phải xây dựng nhiều công trình cầu, cống, phải xử lý nền đất yếu, sụt trượt, kiên cố hóa công trình với khối lượng lớn.
Điểm thứ hai là phải xây dựng nhiều công trình cầu vượt, cống chui dân sinh và các nút giao, đường gom, đường nối, các công trình phụ trợ. Trong khi đó, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư cao, việc tổ chức thực hiện chậm trễ đã dẫn đến chậm tiến độ và tăng chi phí.
Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho hay, ngoài các lý do nói trên thì yếu tố tăng chi phí cho suất đầu tư đường cao tốc “đội” lên bởi thời gian xây dựng dự án bị kéo dài do giải phóng mặt bằng, do thiếu vốn, biến động giá.
Nguồn cung cấp vật liệu không ổn định, trong khi đó chủ đầu tư thiếu chủ động trong chuẩn bị nguồn vật liệu nên giá vật liệu thường biến động lớn khi triển khai xây dựng, phát sinh chi phí; việc xác định các chủ trương đầu tư, áp dụng tiêu chuẩn thiết kế đường cao tốc không phù hợp với điều kiện cụ thể của từng dự án cũng ảnh hưởng tới chi phí đầu tư xây dựng công trình nên không thể loại trừ dự án có thể phải điều chỉnh tổng mức đầu tư so với kế hoạch đã được thông qua trước đó.
Do phải sử dụng nguồn vốn lớn nên nhiều loại máy móc, thiết bị thi công và các loại nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu đều phải nhập khẩu, các dự án xây dựng đường cao tốc có tổng mức đầu tư lớn, thường huy động nguồn vốn vay của nước ngoài nên phải chịu thêm lãi vay và các điều kiện vay, làm tăng chi phí đầu tư…
Những cung đường Xuân là động lức thúc đẩy năng suất nền kinh tế, vì vậy mỗi người, mỗi doanh nghiệp cũng cần nỗ lực hơn nữa để tăng cao năng suất lao động, góp phần nối dài hơn những cung đường Xuân đất nước.
Theo Pháp luật Online
TPHCM liên tục nâng mức chuẩn nghèo
Theo UBND TPHCM, sau khi nâng mức chuẩn hộ nghèo thành phố theo tiêu chí thu nhập bình quân là từ 16 triệu đồng/người/năm trở xuống (không phân biệt nội thành và ngoại thành), tổng số hộ nghèo của thành phố vào đầu năm 2014 là khoảng 130.000 hộ, chiếm 7,12% tổng số hộ dân.
Nâng mức chuẩn nghèo lên cao
Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015 áp dụng chung cho cả nước, hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 6 triệu đồng/người/năm trở xuống. Tuy nhiên, ở TPHCM đến cuối năm 2008 đã xóa nghèo với mức chuẩn nghèo là 6 triệu đồng/người/năm. Đầu năm 2009, thành phố nâng mức chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2009 - 2015, thu nhập bình quân từ 12 triệu đồng/người/năm trở xuống mới là hộ nghèo.
TP liên tục nâng mức chuẩn nghèo để chăm lo tốt hơn cho người nghèo
Qua 5 năm thực hiện mức chuẩn nghèo giai đoạn 2009 - 2015, tổng số hộ nghèo theo tiêu chí thu nhập 12 triệu đồng/người/năm giảm từ 152.000 hộ vào đầu năm 2009 xuống còn 14.000 hộ vào cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 8,4% xuống còn 0,71% trên tổng số hộ dân. Như vậy, đến cuối năm 2013 thành phố không còn hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2011 - 2015, hoàn thành mục tiêu cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2009 - 2015 của thành phố.
Tuy nhiên, thành phố vẫn không hài lòng với thành tích hộ nghèo thành phố vượt qua mức chuẩn thu nhập 12 triệu đồng/người/năm. Theo UBND TP, dù thu nhập của hộ nghèo vượt qua mức 12 triệu đồng/người/năm nhưng thực tế cuộc sống vẫn còn khó khăn và dễ tái nghèo do mức thu nhập thực tế của mức chuẩn nghèo 12 triệu/người/năm của năm 2013 chỉ tương đương 7,2 triệu đồng/người/năm so với thời điểm năm 2009. Do đó, UBND TP cho rằng: "Phải điều chỉnh chuẩn hộ nghèo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, giá cả sinh hoạt và điều kiện của người dân thành phố".
Vì vậy, TP quyết định nâng chuẩn hộ nghèo và hộ cận nghèo thành phố áp dụng cho giai đoạn 2014 - 2015. Cụ thể, hộ nghèo thành phố là những hộ dân có mức thu nhập bình quân từ 16 triệu đồng/người/năm trở xuống. Hộ cận nghèo thành phố là những hộ dân có mức thu nhập bình quân từ trên 16 triệu đồng đến 21 triệu đồng/người/năm. Diện bình xét của thành phố tính cả hộ dân thường trú và tạm trú KT3 trên địa bàn thành phố, mức chuẩn nghèo này không phân biệt nội thành và ngoại thành.
Người nghèo vẫn được hưởng chính sách ưu đãi
Tính đến cuối năm 2013, chương trình Giảm nghèo, tăng hộ khá của TPHCM đã trải qua 3 giai đoạn (1992 - 2003; 2004 - 2008 và 2009 - 2015) với 7 lần điều chỉnh nâng mức chuẩn hộ nghèo cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Sau khi nâng mức chuẩn nghèo thành phố giai đoạn 2014 - 2015 lên, tổng số hộ nghèo của thành phố vào đầu năm 2014 là khoảng 130.000 hộ, chiếm 7,12% tổng số hộ dân. Mặc dù mức chuẩn nghèo của thành phố cao gấp 3 lần so với cả nước nhưng TPHCM vẫn kiến nghị Trung ương cho người nghèo được hưởng các chính sách ưu đãi và đảm bảo an sinh xã hội chung cũng như các chính sách riêng của thành phố.
Về giáo dục, học sinh thuộc hộ nghèo được miễn 100% học phí và hỗ trợ chi phí học tập, kể cả học phí buổi 2. Học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập thuộc hộ nghèo cũng được hỗ trợ 100% học phí. Học sinh các cấp học phổ thông thuộc hộ cận nghèo hoặc là con thứ 3 của hộ nghèo được hỗ trợ 50% học phí, kể cả học phí học buổi 2. Kinh phí thực hiện chính sách này chi từ ngân sách thành phố và quận - huyện.
Về y tế, người nghèo TP vẫn được vận dụng chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo của Trung ương; Đồng thời hỗ trợ 15% đồng chi trả chi phí khám chữa bệnh cho hộ nghèo và cho thành viên hộ cận nghèo, hộ vừa vượt chuẩn cận nghèo đang chạy thận nhân tạo, nhằm giúp các hộ vượt chuẩn nghèo, vượt chuẩn cận nghèo đảm bảo căn cơ, bền vững.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo cũng tiếp tục được hưởng chính sách nâng cao chất lượng dân số giai đoạn đầu đời như: Hỗ trợ 100% chi phí khám sức khỏe tiền hôn nhân cho thành viên hộ nghèo và 50% cho thành viên hộ cận nghèo; Hỗ trợ 100% chi phí cho hộ nghèo và 50% cho hộ cận nghèo khám, xét nghiệm, siêu âm sàng lọc trước sinh và nhiều xét nghiệm khác dành cho thai phụ để đảm bảo đứa trẻ sinh ra khỏe mạnh. TP còn hỗ trợ 100% chi phí cho hộ nghèo và 50% cho hộ cận nghèo xét nghiệm sàng lọc sơ sinh.
Ngoài ra, người nghèo TP cũng được hưởng các chính sách khác như hỗ trợ xây dựng nhà tình thương, hỗ trợ chi phí hỏa táng, trợ cấp xã hội hàng tháng, thực hiện chính sách ưu đãi về thuế và miễn giảm các khoản đóng góp cho hộ nghèo...
Tùng Nguyên
Theo Dantri
Tử hình 3 "mắt xích" trong đường dây vận chuyển 720 bánh heroin Bình quân, mỗi tháng đường đây này tổ chức mua bán, vận chuyển 1 - 2 chuyến. Bình quân mỗi chuyến là 15 bánh Heroin. Tính từ năm 2007 đến năm 2009 tổng số heroin các đối tượng mua bán, vận chuyển là 720 bánh. Mặc dù đường dây vận chuyển, buôn bán heroin này hoạt đồng khá tinh vi nhưng cuối cùng...