Bộ trưởng Quốc phòng Hungary tiết lộ bí mật của Liên Xô
Những năm 1970-1980 của thế kỷ trước được nhiều nhà sử học coi là thời kỳ hoàng kim của Liên Xô và các quốc gia thuộc Tổ chức Hiệp ước Warszawa.
Thực ra, mọi chuyện không êm đềm như vậy.
Mỹ và NATO biết rất rõ mục đích và nhiệm vụ đặt ra trước các nước xã hội chủ nghĩa. Điều này khiến các nhà lãnh đạo của khối hết sức lo lắng. Chỉ vài thập kỷ sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Hungary Oláh István từ trần, sự việc mới được làm sáng tỏ.
Kế hoạch tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt trên lãnh thổ Nam Tư
Sự tồn tại của nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa dựa trên ba trụ cột: Nguyên soái Josip Broz Tito, lực lượng vũ trang và đảng Cộng sản. Nhưng Josip Broz Tito càng già đi thì khủng hoảng chính trị trong nước càng tăng. Cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng ở Nam Tư giữa phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt. Không phải vô cớ mà Mỹ và NATO lo sợ rằng sau khi Tito từ trần, cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến việc các tướng thân Liên Xô lên cầm quyền, nội chiến và sự can thiệp quân sự của Liên Xô. Lưu ý đến vị trí địa lý của Nam Tư, không thể để xảy ra điều đó. Nếu Liên Xô “khuất phục” được quốc gia này, thì quân đội của Tổ chức Hiệp ước Warszawa có thể thẳng đường tiến tới Ý và Hy Lạp.
Đại tướng Oláh István (trái) trong một cuộc tập trận của khối Warszawa.
Nỗi lo sợ của người Mỹ được minh chứng bởi sự hiện diện của Tập đoàn quân phương Nam của Liên Xô ở Hungary, đơn vị này luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Theo ước tính, từ khu vực hồ Balaton, quân đội Liên Xô có khả năng áp sát biên giới Nam Tư trong vòng 12 giờ và nổ súng. Vì lý do này, Tập đoàn quân phương Nam, cũng như quân đội Hungary và Bulgaria, thường xuyên bị tình báo Nam Tư giám sát chặt chẽ. Nhưng để giải quyết “vấn đề Nam Tư”, Liên Xô còn có kế hoạch điều động các sư đoàn từ vùng Baltic.
Đại tướng Vladislav Achalov, Thứ trưởng Quốc phòng Liên Xô, lúc bấy giờ là Sư đoàn trưởng Sư đoàn Đổ bộ đường không cận vệ số 7 ở Litva, nhớ lại: “Nhiệm vụ tác chiến của sư đoàn chúng tôi ở miền nam Nam Tư, ven bờ Adriatic, đã được vẽ trên bản đồ, với chỉ dẫn cụ thể trung đoàn nào đổ bộ ở đâu, những căn cứ nào cần đánh chiếm…”. Dựa vào hồi ức của Vladislav Achalov, có thể kết luận rằng quân đội Liên Xô đã từng có kế hoạch tiến hành chiến dịch quân sự trên lãnh thổ Nam Tư. Đáp lại, các đơn vị xe tăng và cơ giới chủ lực của quân đội Nam Tư đã tập trung ở vùng Đông Bắc Croatia, Slavonia, Vojvodina và đồn trú ở đây cho đến năm 1988. Cần lưu ý rằng chiến dịch quân sự do Liên Xô chuẩn bị không phải là một hoạt động thông thường, vì vậy, phải được giữ bí mật tuyệt đối. Nhưng trái với mong muốn của Liên Xô và các đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Warszawa, chiến dịch quân sự đã được biết đến rộng rãi.
Đoàn đại biểu Hungary với sự tham gia của Oláh István đến thăm Nam Tư.
Trò chơi gián điệp
Rõ ràng là có một kênh rò rỉ thông tin nào đấy. Về phía mình, Bộ Chỉ huy quân sự của Tổ chức Hiệp ước Warszawa khá quan tâm đến công tác bảo vệ bí mật. Nhưng ngay cả khi một khối lượng công việc rất lớn đã được tiến hành theo hướng này, xét về mức độ bảo mật, dù sao Liên Xô vẫn chưa thể theo kịp Mỹ.
Không thể ngay lập tức xác định kẻ thù đã nhận được các thông tin bí mật như thế nào. Nhiều phương án có thể xảy ra. Những kẻ chống đối chế độ thỉnh thoảng xuất hiện ở các nước khác nhau trong Tổ chức Hiệp ước Warszawa. Đã có những âm mưu lật đổ chính phủ cộng sản ở Hungary và Tiệp Khắc vào năm 1956 và 1968. Trong những trường hợp này, vấn đề buộc phải giải quyết bằng can thiệp quân sự. Những tâm trạng tương tự cũng tồn tại ở các quốc gia khác trong Tổ chức Hiệp ước Warszawa. Ở CHDC Đức, sự bất mãn được “nảy nở” bởi tính kỷ luật Đức, ở Bulgaria – bởi thiện cảm với nước Nga trong suốt chiều dài lịch sử, ở Romania – bởi sự tàn bạo của chế độ Nicolae Ceausescu. Còn ở Ba Lan, phần lớn dân chúng ủng hộ công đoàn “Đoàn kết”, tổ chức này mưu toan lật đổ chính quyền cộng sản mà không cần đấu tranh vũ trang. Tất cả các quốc gia này đều đáng ngờ và bắt đầu bị theo dõi.
Tuy nhiên, mọi ánh mắt lại hướng về phía Romania. Vào thời điểm đó, Bucharest không còn hợp tác với các đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Warszawa theo đường tình báo nữa, vì vậy không có điều kiện tiến hành kiểm tra khách quan. Chính vì lý do này mà các cơ quan tình báo của Tổ chức Hiệp ước Warszawa đề ra nhiệm vụ dài hạn khám phá mối liên hệ của các nước NATO với “Đối tượng 24″, tức Romania. Họ đã bỏ ra rất nhiều thời gian và sức lực để giải quyết nhiệm vụ này, nhưng hầu như không có kết quả. Phải chăng các cơ quan tình báo đã đi lệch hướng? Vâng, đúng vậy. Hungary, nước láng giềng của Nam Tư, không được giám sát chặt chẽ.
Video đang HOT
Nguyên soái Josip Broz Tito (phải) và đô đốc Branko Mamula.
Tướng quân đội Oláh István giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng Cộng hòa Nhân dân Hungary không lâu – chỉ hơn một năm. Trung tuần tháng 12/1985, ông qua đời vì một cơn đau tim ở Budapest. Ông được coi là bộ trưởng quốc phòng duy nhất của nước Hungary xã hội chủ nghĩa là quân nhân chuyên nghiệp. Tất cả những người tiền nhiệm khác của ông đều là cán bộ đảng. Nhưng Oláh cũng không gắn bó với binh nghiệp suốt cả cuộc đời.
Giáo dục là lĩnh vực gần gũi với ông hơn. Năm 1945, đang học dở trường sư phạm, ông tình nguyện gia nhập quân đội Hungary mới. Cùng năm, ông được kết nạp vào đảng Cộng sản Hungary. Mùa đông năm 1945, ông giải ngũ với cấp bậc hạ sĩ, năm 1947, ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Debrecen và nhận bằng giáo viên. Sau đó, ông trở thành bí thư Đoàn Thanh niên Dân chủ Hungary và cán bộ đảng. Năm 1947, ông lại tình nguyện nhập ngũ. Năm 1949, ông tốt nghiệp Học viện Quân sự mang tên Kossuth, năm 1952 – theo học các khóa sĩ quan cao cấp tại Học viện quân sự, năm 1964 – tham gia các khóa nâng cao trình độ chuyên môn tại Học viện Quân sự cao cấp mang tên K. Voroshilov ở Liên Xô.
Trong thời gian diễn ra các sự kiện ở Hungary năm 1956, Oláh là hiệu trưởng Trường Quân sự số II hai mang tên Rákóczi Ferenc ở thị trấn Matyashfeld, ngoại ô Budapest. Khi quân đội Liên Xô tiến vào thành phố, ông cho các học học viên của mình về nhà và yêu cầu họ không can thiệp vào các sự kiện đang diễn ra.
Cuộc gặp gỡ định mệnh
Oláh nổi bật trong thời gian tiến hành các cuộc tập trận của quân đội Hungary. Bắt đầu từ cuộc tập trận Oral năm 1971, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tương lai đã đặc biệt chú ý vấn đề thiết lập các điểm vượt sông Danube. Nhiệm vụ khó khăn này là một tính năng thường xuyên trong tất cả các cuộc tập trận của Tổ chức Hiệp ước Warszawa. Theo sáng kiến của ông, các kỹ sư quân sự Hungary đã nỗ lực tối đa để giải quyết nhiệm vụ chuyên môn hẹp có ý nghĩa kinh tế lớn này. Tháng 9/1977, trong cuộc diễn tập “Lá chắn-77″, quân đội Hungary đã bắc một cây cầu đường sắt qua sông Danube bằng cách sử dụng các sà lan sông. Trong điều kiện chiến tranh hạt nhân, việc xây dựng các phương pháp tiếp cận như vậy có tầm quan trọng rất lớn. Phát minh này đã nhận được các giải thưởng nhà nước, còn trong Tổ chức Hiệp ước Warszawa, kỹ thuật bắc cầu của quân đội nhân dân Hungary được đánh giá cao.
Ít lâu sau, tướng Oláh bắt đầu chịu trách nhiệm về quan hệ quốc tế với các nước thứ ba (Nam Tư là một trong số đó). Và trên cương vị này, ông đã đạt được những thành tích đáng kể. Quan hệ Hungary-Serbia và Hungary-Nam Tư luôn căng thẳng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 1956, nhà lãnh đạo cuộc cách mạng chống cộng Hungary, Imre Nagy, đã chạy trốn quân đội Liên Xô trong Đại sứ quán Nam Tư.
Năm 1966, Oláh tham gia phái đoàn quân sự Hungary đến thăm đất nước Balkan. Sau đó, theo sáng kiến của ông, đã diễn ra một loạt các chuyến thăm qua lại giữa hai nước. Oláh đích thân tháp tùng các nhà quân sự Nam Tư khi đến thăm các trường quân sự của Hungary. Trong một lần như vậy, vị tướng Hungary đã làm quen với đô đốc tương lai Branko Mamula, người Serbia.
Cuộc gặp gỡ này đóng vai trò lớn trong việc bình thường hóa quan hệ Hungary-Nam Tư. Cả hai nhà lãnh đạo trên lãnh thổ “của mình” đã nỗ lực hết sức để chấm dứt mối thù lịch sử giữa các quốc gia láng giềng. Song song, họ vẫn tiếp tục thăng tiến. Oláh trở thành Tổng tham mưu trưởng quân đội Hungary, còn Mamula trở thành Tư lệnh hải quân. Năm 1979, Mamula đứng đầu Bộ Tổng tham mưu quân đội Nam Tư, năm 1982, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nam Tư. Còn Olah giữ chức vụ tương đương hai năm sau, 1984.
Bộ trưởng Quốc phòng Hungary tham gia duyệt binh ở Budapest.
Lời thú nhận chân thành
Gần 30 năm sau khi Oláh István qua đời, người ta mới biết rõ nguyên nhân thực sự của tình bạn giữa hai quan chức cao cấp. Đô đốc Mamula quyết định tiết lộ tất cả những bí mật của mối quan hệ khăng khít này: “Mùa thu năm 1980, Tổng tham mưu trưởng quân đội Hungary, tướng Oláh István đã đến thăm chúng tôi. Ông nói với tôi rằng vào thời điểm đó quân đội của Tổ chức Hiệp ước Warszawa có thể tấn công chúng tôi từ Hungary. Quân đội Hungary cũng sẽ thực hiện nghĩa vụ đồng minh của mình theo Tổ chức Hiệp ước Warszawa mà cả ông và ban lãnh đạo Hungary đều không thể từ chối. Nhưng ông đảm bảo với tôi rằng ông, Oláh István, sẽ tìm cách thông báo kịp thời cho tôi tất cả mọi việc. Ông là một sĩ quan, một con người tuyệt vời. Tôi không phổ biến cuộc trò chuyện này, vì không muốn gây rắc rối cho người bạn chân thành”.
Các kế hoạch của Liên Xô được chuyển cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nam Tư rất đúng lúc. Nam Tư chưa sẵn sàng phòng thủ. Ban lãnh đạo đã mất quá nhiều thời gian để triển khai hệ thống phòng thủ trong trường hợp bị Liên Xô tấn công.
Không khó để dự đoán rằng thông tin này đã “bay” đến đến Bộ Tổng tham mưu NATO nhanh như thế nào. Bằng chứng gián tiếp là việc Mỹ đột ngột xem xét lại các lệnh cấm vận đã áp dụng trước đây. Mỹ đồng ý bán máy bay chiến đấu F-5 và tên lửa chống tăng TOW cho Nam Tư. Trong khi đó, tại Tổ chức Hiệp ước Warszawa, người ta truy lùng những kẻ phản bội ở Romania và đánh giá cao các bản thiết kế cầu bắc qua sông Danube của Hungary.
Người vợ bí mật của nguyên soái Josip Broz Tito
Nguyên soái Josip Broz Tito (1892-1980) là Tổng thư ký kiêm Chủ tịch Liên đoàn Những người cộng sản Nam Tư (từ năm 1939 đến năm 1980), ông tham gia và lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Tư trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Sau đó, Tito trở thành Thủ tướng và Tổng thống (1945-1980) của Cộng hòa Liên bang xã hội chủ nghĩa Nam Tư cho đến khi mất. Nhiều người đã biết về sự chia rẽ giữa Liên Xô và Nam Tư và những âm mưu thủ tiêu "tên phát xít" Tito của Stalin. Nhưng, còn có một bí mật đóng vai trò nhất định ở đây. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Con người bí ẩn
Josip Broz Tito là một chính khách tầm cỡ. Ông cũng là nhà tiên tri, chiến lược gia và nhà hoạt động quốc gia được thế giới công nhận. Bằng tài năng phi thường và trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, ông đã làm nên một sự nghiệp lẫy lừng.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, ông và các chiến sĩ du kích của mình đã giải phóng Nam Tư khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức. Đây là sứ mệnh mà ông đã hoàn thành một cách vẻ vang và hợp thức hóa sự cầm quyền lâu dài của mình. Nếu không có "người du kích vĩnh cửu", nước Nam Tư có thể đã không tồn tại sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong suốt 35 năm cầm quyền, ông là nhà lãnh đạo không thể thay thế của Nam Tư. Nhưng, nước Nam Tư của Josip Broz Tito chỉ tồn tại lâu hơn người khai sinh ra nó gần 1 thập kỷ và làn sóng bạo lực xảy ra sau đó là điều mà châu Âu chưa từng thấy kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Josip Broz Tito là con người bí ẩn. Ngay cả ngày sinh của mình ông cũng ghi khác nhau vào những thời điểm khác nhau và viết tên mình theo những cách khác nhau: Khi thì Josef, khi thì Joser, khi thì Josif. Về nguồn gốc của bí danh "Tito" mà ông nhận được ở Moscow vào năm 1935 và trở thành họ thứ hai của ông, cũng có những giả thuyết khác nhau.
Mặt khác, tính cách của Tito rất mâu thuẫn. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình bình dân, một du kích quân và anh hùng dân tộc, Tito thích sự xa xỉ, ông xây cung điện, sắm du thuyền, nuôi ngựa, hút xì gà đắt tiền, đeo chiếc nhẫn đính một viên kim cương lớn và mặc quân phục nguyên soái màu trắng thêu kim tuyến. Là một người không ngại đối đầu với Stalin, ông đã xây dựng "chủ nghĩa xã hội thị trường" trên đất nước mình, cho phép những người công nhân và tập thể lao động nhiều quyền hơn cả trong thời kỳ cuối của Liên bang Xôviết. Là người đứng đầu các nước "không liên kết", Tito vẫn là một nhà độc tài, thích được tôn sùng và thẳng tay đàn áp các đối thủ chính trị...
Đến Liên Xô với hộ chiếu giả
Một trong những bí mật của Josip Broz Tito đã được Marie-Janine Calic, giáo sư tại Đại học Munich, chuyên gia về lịch sử Đông Âu và Đông Nam Âu, tiết lộ trong cuốn sách "Tito. Người du kích vĩnh cửu". Bí mật này liên quan đến cuộc sống của Tito ở Moscow trong những năm "Đại thanh trừng" (1936-1938) và nguyên nhân bí mật, rất riêng tư của cuộc tranh cãi giữa ông và Stalin. Tất nhiên, đây không phải là nguyên nhân duy nhất và quan trọng nhất (đã có những bất đồng chính trị rất lớn và nỗ lực của Nam Tư nhằm thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Moscow). Nhưng, xét về nhiều mặt, nguyên nhân này rất căn bản.
Cuốn hộ chiếu Canada giả Josip Broz Tito dùng để trở về Nam Tư từ Moscow, Cuối những năm 1930.
Josip Broz Tito đến Moscow theo đường vòng và với hộ chiếu giả sau khi bị bỏ tù (ông bị kết án 5 năm tù ở Nam Tư vì tham gia Đảng Cộng sản bị cấm và sở hữu súng) vào tháng 2 năm 1935. Ông đến Moscow, nói một cách nhẹ nhàng, không đúng lúc lắm. Ở hai thành phố Moscow và Leningrad đang diễn ra các vụ bắt bớ và các cuộc họp hành triền miên, tại đó người ta vạch mặt "những kẻ theo chủ nghĩa Trotsky", kể cả các đảng viên cộng sản nước ngoài. Tại Quốc tế Cộng sản, Tito mang bí danh "Friedrich Walter" và được bố trí ở trong căn phòng nhỏ số 275 của khách sạn "The Luxe" trên phố Gorky. Các cán bộ của Quốc tế Cộng sản và đại biểu của các đảng cộng sản nước ngoài đều sống ở đây, cách biệt với thế giới Xôviết bên ngoài.
Tòa nhà kiểu mẫu này do doanh nhân Filippov xây dựng năm 1911 và từ đó chưa được sửa chữa. Những người cộng sản Đức sống ở đây phàn nàn về điều kiện sinh hoạt tồi tệ của "The Luxe": Phòng ở chật chội, thiếu tiện nghi, nhà vệ sinh được bố trí ngoài hành lang, bếp chung, bẩn thỉu, nhiều chuột, mỗi tuần chỉ được tắm một lần... Nhưng, đối với Tito, người sinh ra và lớn lên ở Nam Tư trong những điều kiện khác, cuộc sống ở khách sạn là một sự xa hoa: Ở "The Luxe" có hệ thống sưởi ấm trung tâm, điện thoại, nước nóng, tầng nào cũng có bếp ga, nhà ăn, tiệm bánh, thậm chí cả hiệu cắt tóc...
Huấn luyện đặc biệt ở Moscow
Josip Broz Tito đã làm gì ở Moscow? Điều này cũng không hoàn toàn rõ ràng. Trong vòng mấy tháng trời, dường như ông biến mất. Rất có thể, ông tham gia khóa huấn luyện đặc biệt tại các lớp học bí mật của Quốc tế Cộng sản, nơi người ta đào tạo các tình báo viên và quân nhân. Điều này chắc chắn rất bổ ích đối với Josip Broz Tito trong cuộc chiến tranh du kích chống phát xít Đức tại các vùng rừng núi của Nam Tư trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Ngôi nhà thời thơ ấu của Josip Broz Tito.
Josip Broz Tito nhiều lần gặp gỡ với các cán bộ của Quốc tế Cộng sản, thảo luận với họ về tình hình Nam Tư và Đảng Cộng sản Nam Tư, viết bản "nhận xét" về các đồng chí của mình... Tất cả những người cộng sản đều có nghĩa vụ thực hiện điều này. Nhưng, các "nhận xét" do Tito cung cấp và được lưu giữ tại phòng nhân sự của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản không phải là những bản tố giác chính trị (như Marie-Janine Calic nhấn mạnh trong cuốn sách của bà và có bằng chứng đáng tin cậy). Nếu ông nêu ra những mặt tiêu cực nào đó của các cán bộ lãnh đạo đảng thì chỉ thuần túy mang tính chất cá tính, ví dụ: Người này can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ và chỉ lo vun vén lợi ích cá nhân, người kia phản bội vợ, v.v...
Chuyện tình ở khách sạn "The Luxe"
Về đời tư, bản thân Josip Broz Tito không phải là người hoàn toàn trong sáng. Ở Moscow, ông ly hôn vợ mình là Pelageya Belousova, người mà ông không gặp kể từ năm 1929, khi bà cùng con trai Zharko di cư sang Liên Xô. Tito rất giận vợ vì bà ta hoàn toàn bỏ rơi con trai của họ khi ông đang ngồi tù ở Nam Tư. Zharko là một thiếu niên hư và chẳng bao lâu bị đưa vào trại cải tạo, nhưng bà Pelageya thậm chí không biết trại nào. Sang Moscow, Tito nhanh chóng tìm được con trai và đưa về sống với mình, nhưng ông không làm sao quản lý được cậu bé: Zharko giao du với một nhóm côn đồ, trộm cướp...
Còn một lý do khác dẫn tới vụ ly hôn của họ. Ở khách sạn "The Luxe", Tito gặp cô gái trẻ người Đức Lucie Bauer (tên thật là Johanna Elsa Knig). Cô sinh ra và lớn lên ở thành phố Chemnitz của Đức, trong một gia đình công nhân, là đoàn viên Thanh niên cộng sản Đức. Năm 19 tuổi, Lucie sinh con gái. Một năm sau, Đảng Cộng sản cử cô đến Moscow tham gia các khóa đào tạo những người hoạt động bí mật. Con gái cô ở lại với ông bà bên Đức.
Ngay sau đó, Lucie rơi vào danh sách những người bị Gestapo truy nã, vì vậy cô không thể trở về quê hương. Trở thành chính trị gia lưu vong, cô tốt nghiệp khóa đào tạo nhân viên đồ họa và làm việc tại nhà máy vô tuyến điện ở Moscow. Vì nói tiếng Nga kém, cô giao tiếp với "đồng chí Walter" bằng tiếng Đức (Tito biết tiếng Đức và một vài ngôn ngữ khác). Lucie chuyển đến sống với Tito và con trai ông ở phòng 275. Thật bất ngờ, cậu bé tỏ ra quý mến mẹ kế và nghe lời cô.
Số phận bi thảm của Lucie Bauer
Nhưng, mối tình của nhà cách mạng Josip Broz Tito 44 tuổi và cô gái trẻ Lucie Bauer 22 tuổi không kéo dài được bao lâu. Ngày 13/10/1936, họ chính thức kết hôn và 3 ngày sau, theo chỉ thị của Georgy Dimitrov (Tổng Bí thư Ban Chấp hành Đệ tam Quốc tế từ năm 1935 đến năm 1943), Tito về nước để lập lại trật tự trong Đảng Cộng sản Nam Tư đang bị chia rẽ bởi các cuộc tranh giành quyền lực. Dimitrov hứa với Tito rằng Lucie và Zharko sẽ trở về Nam Tư ngay khi cuộc sống của ông được thu xếp ổn định. Nhưng, điều này đã không bao giờ xảy ra.
Mãi đến tháng 3/1937, Lucie mới nhận được bức thư đầu tiên của chồng mình. Bức thư bắt đầu bằng dòng chữ: "Em thương yêu của anh!". Tito viết rằng ông đang tìm mọi cách để đưa cô và Zharko trở về Nam Tư càng sớm càng tốt. Và, đó là sự thật. Tito đã nhiều lần viết thư cho Dimitrov cầu xin ông giải quyết nhưng ông ta chỉ trả lời chung chung.
Lucie Bauer bị Bộ Dân ủy nội vụ Liên Xô bắt cùng hơn 4.000 người Đức lưu vong khác bị buộc tội oan là gián điệp, phá hoại ngầm và đặc vụ của Gestapo. Cô bị buộc tội theo Điều 58 khét tiếng và mặc dù Lucie không thừa nhận mình là gián điệp nhưng cô vẫn bị kết án tử hình. Ngày 29/12/1937, Lucy bị bắn ở Butovo, Moscow.
Một thời gian dài, Tito cố gắng tìm hiểu số phận của Lucie nhưng những người mà ông có thể hỏi thăm đều lần lượt biến mất. Thật khó nói ông nhận được tin về cái chết của Lucie từ bao giờ. Ông không nói với ai rằng cô là vợ ông. Nhưng, năm 1948, khi diễn ra xung đột giữa Tito và Stalin, nhiều người nhìn thấy sức chịu đựng đáng kinh ngạc, sự kiên trì và lòng dũng cảm của Tito (rõ ràng là Stalin tìm mọi cách để thủ tiêu ông) không những khát vọng bảo vệ nền độc lập của Nam Tư mà còn những nguyên nhân riêng tư nào đấy. Rất có thể, một trong những nguyên nhân đó là số phận bi thảm của người vợ trẻ của ông?
Nga phản đối OSCE vì họp nhưng không mời Ngoại trưởng Lavrov Các ngoại trưởng OSCE đang nhóm họp tại Ba Lan nhưng nước này đã không mời Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergey Lavrov. Nga đã phản đối hành động này, còn các nước phương Tây cho rằng lỗi do chính Nga gây ra. Quang cảnh cuộc họp của OSCE diễn ra tại Ba Lan ngày 1/12. Ảnh: DW Theo báo Deutsche Welle (Đức),...