Bộ TN-MT nhận trách nhiệm việc lùi thu tiền cấp quyền khoáng sản
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, nếu bây giờ cho lùi thời hạn hay cho miễn tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì người dân sẽ được hưởng lợi.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà chia sẻ tại Nghị trường Quốc hội. (Nguồn ảnh: TTXVN)
Trong báo cáo giải trình đại biểu Quốc hội về việc lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước tại Nghị trường Quốc hội chiều 1/11, Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường xin nhận trách nhiệm với tư cách là cơ quan chủ trì xây dựng, trình Chính phủ các Nghị định; chưa kịp thời báo cáo, đề xuất Chính phủ, trình cấp có thẩm quyền để tháo gỡ.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng khẳng định việc chậm ban hành Nghị định về vấn đề trên không có chuyện “lợi ích nhóm” và “nếu bây giờ cho lùi thời hạn hay cho miễn tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì người dân sẽ được hưởng lợi.”
Không lường trước được khó khăn
Theo báo cáo giải trình của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc chậm ban hành Nghị định số 203 và Nghị định số 82 về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là do thời điểm trình dự án Luật Khoáng sản (năm 2010) và Luật Tài nguyên nước (năm 2012), hồ sơ trình thực hiện theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Theo đó, Luật này không quy định trong hồ sơ trình dự án Luật phải có văn bản quy định chi tiết. Trong quá trình xây dựng các Luật, việc đánh giá tác động của các chính sách nêu trên đã thực hiện nhưng chưa toàn diện, cụ thể.
Ngay sau khi các Luật được ban hành, mặc dù Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khẩn trương xây dựng các dự thảo Nghị định, nhưng không lường trước được hết về những khó khăn, nhất là các vấn đề liên quan đến kinh tế, các thông số kỹ thuật phức tạp khi xây dựng phương pháp tính và mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thác tài nguyên nước.
Vì thế, trong quá trình xây dựng các Nghị định cần phải có nhiều thời gian để hoàn thiện phương pháp tính, mức thu tiền do tính chất phức tạp, đa dạng của các đối tượng thuộc diện tính tiền.
Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng các Nghị định, khi gặp những khó khăn, vướng mắc nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa kịp thời báo cáo, đề xuất Chính phủ giải quyết hoặc trình cấp có thẩm quyền để tháo gỡ.
Với khó khăn, vướng mắc khi thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, khi Chính phủ (nhiệm kỳ 2011-2016) có Báo cáo số 388/BC-CP ngày 10/10/2014 gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII và đề nghị miễn thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (từ ngày 1/7/2011 đến 31/12/2013) nhưng Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan trong quá trình xử lý.
Không có chuyện “ lợi ích nhóm“
Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định để ban hành được các Nghị định đã phải qua nhiều lần soạn thảo với ý kiến của hầu hết các thành viên Ban soạn thảo là đại diện của các Bộ, ngành. Ngoài ra, có sự tham gia góp ý của tất cả Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, chứ không phải là ý kiến chủ quan của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Video đang HOT
Đối tượng điều chỉnh của các Nghị định này là hàng ngàn doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế . Riêng đối với tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được hạch toán vào giá thành sản xuất, chủ yếu được tính vào giá điện, giá nước. Thực chất các nhà máy điện, nhà máy nước chỉ là người thu hộ từ người dùng điện, dùng nước để nộp cho nhà nước.
“Do đó, nếu Quốc hội đồng ý cho lùi thời hạn thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước về mặt bản chất thì người dùng điện, dùng nước sẽ không phải nộp thêm khoản tiền nêu trên chứ không phải các nhà máy điện, nhà máy nước được miễn. Vì vậy không có vấn đề về lợi ích nhóm,” Bộ trưởng nhấn mạnh.
Khoáng sản. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam )
Về trách nhiệm chậm ban hành Nghị định 203, ông Hà cho biết, tại Văn bản số 1320/VPCP-V.I ngày 25/2/2015, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của cơ quan tham mưu, trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ và trách nhiệm của tổ chức cá nhân có liên quan.
Kết quả đã kiểm điểm cấp Vụ, cấp Tổng cục. Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (giai đoạn 2011-2015) đã kiểm điểm và nhận trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu trước Lãnh đạo Bộ. Các Vụ, Cục có liên quan của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã kiểm điểm trách nhiệm và đã có hình thức kỷ luật tương xứng.
Đến ngày 10/5/ 2018, Chính phủ tiếp tục có Tờ trình số 170/TTr-CP gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV đề nghị miễn thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản giai đoạn nêu trên thì Bộ Tài nguyên và Môi trường mới có báo cáo Chính phủ để đề xuất Quốc hội xem xét việc lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước như đã nêu trên.
“Bộ Tài nguyên và Môi trường xin nghiêm khắc nhận trách nhiệm với tư cách là cơ quan chủ trì xây dựng, trình Chính phủ các Nghị định nêu trên,” Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhấn mạnh.
Liên quan đến số tiền dự tính (5.000 tỷ đồng) cho tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (giai đoạn từ ngày 1/7/2011 đến ngày 31/12/2013) và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (giai đoạn từ 1/01/2013 đến 31/8/2017), Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản giai đoạn 2,5 năm khoảng 2.800 tỷ đồng là con số dự tính (nếu được tính tại thời điểm đó).
Tuy nhiên, sau khi Nghị định 203 có hiệu lực thì đã được thực hiện như đã nêu trên, trong đó có trên 90% số tiền dự tính nêu trên đã được thu sau năm 2013.
Đối với tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước (dự tính khoảng 2.200 tỷ đồng) được tính toán sơ bộ trên cơ sở áp dụng các quy định của Nghị định để tính ngược trở lại trước. Đây thực chất chưa phải khoản thu ngân sách đã được xác định mà chỉ là dự tính.
Phải có lộ trình
Từ góc độ cá nhân, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng nếu bây giờ cho lùi thời hạn hay cho miễn tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì người dân sẽ được hưởng. Bởi vì, đây là loại thuế gián thu, doanh nghiệp chỉ thu hộ nhà nước và sẽ tính vào tiền điện, tiền nước.
“Quốc hội nói rằng phải thu, chúng tôi hứa rằng sẽ thu được. Chỉ có điều chúng ta có lộ trình để không tăng đột ngột giá nước và giá điện lên người dân,” Bộ trưởng nhấn mạnh.
Về vấn đề khai thác tài nguyên khoáng sản, Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định việc lùi thời hạn là hợp lý, bởi vì trong thực tế Luật Khoáng sản không quy định về hồi tố mà chỉ quy định từ khi luật này ban hành thì sau khi có đánh giá trữ lượng thường mất khoảng 3 đến 5 năm. Vì thế, bây giờ có lùi thời hạn thu thì sẽ dựa trên tổng trữ lượng và được phân kỳ ra thu.
“Như vậy, việc lùi ở đây không ảnh hưởng gì đến việc chúng ta lùi một, hai năm mà vẫn thu trên tổng số lượng đó. Tức là thu trước 2 năm và thu bây giờ thì vẫn dựa trên toàn bộ trữ lượng đánh giá. Chúng tôi sẽ có báo cáo Quốc hội từng dự án một để đánh giá xem có tổn thất, thất thoát không,” ông khẳng định.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà dẫn ví dụ công suất một mỏ là 500 tấn thì 2 năm là 1.000 tấn thì khó nhưng con số đó chỉ chiếm khoảng 0,4% và có thể tính toán được. Như vậy nói khoảng 90% đảm bảo rằng nếu lùi thời hạn khi Nghị định có hiệu lực là không thất thoát, không có lợi ích nhóm./.
Theo Nhóm PV (Vietnam )
Cấp bách giải quyết sạt lở, sụt lún đất và xâm nhập mặn vùng ĐBSCL
Ông Hoàng Văn Bẩy cho biết cần điều tra, khoanh định các khu vực hạn chế khai thác nước dưới đất, trước hết tập trung khoanh định các khu vực cần hạn chế do khai thác quá mức.
Ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại diễn đàn. (Ảnh: Xuân Dự/TTXVN)
Giải quyết hiệu quả tình trạng sạt lở ven sông, biển, sụt lún đất và xâm nhập mặn là nội dung chính của Diễn đàn chuyên đề Quản lý tài nguyên nước, lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Diễn đàn do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18/6.
Phát biểu tại diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò vô cùng quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực và phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên Đồng bằng sông Cửu Long đang chịu tác động của hoạt động khai thác, sử dụng nước gia tăng từ các quốc gia thượng nguồn sông Mekong.
Khu vực đồng bằng đang phải đối mặt với áp lực tăng dân số và phát triển kinh tế dẫn đến nhu cầu sử dụng nước tăng, nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt; phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông chưa gắn kết được với nhiệm vụ bảo vệ nguồn nước và sụt lún đất. Tác động của biến đổi khí hậu gây ra những hệ lụy cho đồng bằng những năm gần đây như diễn biến lũ bất thường; hạn hán gia tăng; mặn xâm nhập sâu vào cả nguồn nước mặt và nước ngầm; sụt lún đất diễn ra trên diện rộng; sạt lở bờ sông, bờ biển xảy ra trên hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, năm 2017 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, nêu rõ các quan điểm, định hướng phát triển tài nguyên nước, ứng phó thiên tai cho Đồng bằng sông Cửu Long. Nghị quyết 120 đã chuyển đổi căn bản quan điểm về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, lấy tài nguyên nước làm cốt lõi và phải thích ứng với diễn biến tài nguyên nước, thiên tai, tôn trọng quy luật tự nhiên.
Trên cơ sở các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 120 và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các tỉnh, thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long đã ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết; trong đó tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để quản lý tài nguyên nước hiệu quả, ứng phó với lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún, sạt lở đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó kiểm soát và tập trung nguồn lực để triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đề ra.
Một trong những vấn đề nghiêm trọng tại Đồng bằng sông Cửu Long là sụt lún đất, sạt lở bờ sông, biển. Ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết đến năm 2018, Đồng bằng sông Cửu Long có 562 vị trí bờ sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều dài 786km, trong đó có 42 vị trí sạt lở đặc biệt nguy hiểm với tổng chiều dài 149km. Sạt lở không những diễn ra trong mùa mưa mà còn xuất hiện cả mùa khô, ở các tuyến sông chính cho đến các hệ thống kênh, rạch với mức độ ngày càng nhiều và nguy hiểm, điểm nguy hiểm nhất thuộc tỉnh Cà Mau với chiều dài 14km.
Đề xuất giải pháp ứng phó với tình trạng sụt lún đất, sạt lở bờ sông, bờ biển, ông Hoàng Văn Bẩy cho biết cần điều tra, khoanh định các khu vực hạn chế khai thác nước dưới đất, trước hết tập trung khoanh định các khu vực cần hạn chế do khai thác quá mức. Trên cơ sở đó các địa phương sẽ phê duyệt, công bố và thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất ở địa phương mình theo quy định.
Ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày giải pháp ứng phó với sụt lún đất. (Ảnh: Xuân Dự/TTXVN)
Bên cạnh đó, đơn vị chức năng cần lập bản đồ phân vùng lún cho toàn vùng trên cơ sở sử dụng công nghệ ảnh viễn thám qua các thời kỳ, tích hợp với bản đồ ngập mặn do tác động của nước biển dâng toàn vùng làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương triển khai các giải pháp thích nghi, ứng phó với nguy cơ ngập mặn do tác động kép của nước biển dâng và sụt lún đất.
Ngoài ra, để từng bước hạn chế khai thác nước dưới đất, đơn vị chức năng cần tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình nước sạch nông thôn, trong đó cần đầu tư, xây dựng hệ thống cấp nước tập trung nông thôn khai thác từ nguồn nước mặt nhằm giảm dần việc khai thác nước dưới đất.
Không chỉ sạt lở, Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang đối diện với những tác động nghiêm trọng của tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Ông Trần Quang Hoài, Tổng Cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cho biết vào các tháng mùa khô, Đồng bằng sông Cửu Long chịu tác động mạnh bởi xâm nhập mặn, đây là đặc tính của vùng. Mức độ xâm nhập hàng năm có tính quy luật tương đối rõ rệt. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nguồn nước thượng lưu sông Mekong về Đồng bằng sông Cửu Long đã thay đổi quy luật tự nhiên bởi việc xây dựng, vận hành các hồ chứa thủy điện thượng lưu, dẫn đến xâm nhập mặn có những thay đổi lớn, gây khó khăn lớn trong việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Theo ông Trần Quang Hoài, để giải quyết xâm nhập mặn, cần rà soát kế hoạch phòng chống thiên tai, phương án ứng phó thiên tai các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long; chủ động nâng cao khả năng dự báo lũ, xâm nhập mặn làm cơ sở để chỉ đạo điều chỉnh mùa vụ sản xuất. Cùng với đó phát hiện và xử lý kịp thời trên 160 vị trí cống bọng, bờ bao bị thấm, rò rỉ nước tại tỉnh An Giang; cắm 186 biển cảnh báo sạt lở; gia cố hơn 580km bờ bao, đắp 207 đập ngăn lũ tại Kiên Giang; gia cố, tôn cao hơn 64km đê bao bảo vệ an toàn hơn 30.000ha lúa Hè Thu tại Long An; chủ động xả lũ lấy nước vào ô bao để lấy phù sa, vệ sinh đồng ruộng với diện tích trên 141.351ha tại An Giang và Đồng Tháp.
Quang cảnh diễn đàn. (Ảnh: Xuân Dự/TTXVN)
Ở góc độ địa phương chịu nhiều tác động của sạt lở ven biển, ông Nguyễn Tiến Hải - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau, cho biết tình trạng sạt lở ven biển, ven sông tại Cà Mau ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, khó lường. Tỉnh đã áp dụng nhiều biện pháp phòng chống sạt lở, cả giải pháp công trình và phi công trình, xử lý khắc phục sạt lở nhiều vị trí xung yếu với chiều dài gần 29km. Các đoạn kè gây bồi tạo bãi đã tạo được bãi bồi ven biển phía bên trong kè, khôi phục hàng trăm ha rừng phòng hộ ven biển. Hiện có nhiều doanh nghiệp đăng ký đầu tư các dự án phát triển dịch vụ du lịch, dịch vụ thương mại ven biển.
Để thu hút, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia đầu tư bảo vệ bờ biển, các đại biểu tham dự diễn đàn kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép giao đất cho doanh nghiệp với thời gian từ 50-70 năm và cho chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích đất rừng phòng hộ bên trong sau khi doanh nghiệp đầu tư kè tạo bãi và trồng rừng diện tích tương ứng phía ngoài.
Nhiệm vụ thích ứng với biến đổi khí hậu ngày càng nặng nề, các tỉnh vùng ven biển chưa cân đối được ngân sách, hàng năm vẫn còn phải tiếp nhận sự hỗ trợ của Trung ương. Vì vậy các đại biểu cũng kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính không áp dụng cơ chế vay lại các dự án ODA đối với các dự án ứng phó thiên tai theo quy định tại khoản 2, Điều 1, Nghị định số 52/2017/NĐ của Chính phủ do đây là các dự án không trực tiếp sinh lợi khi đầu tư./.
Theo Nguyễn Xuân Dự (TTXVN/Vietnam )
Bộ trưởng làm Đại biểu Quốc hội: Đóng "hai vai" sẽ rất khó xử thế Không chỉ "soán chỗ" của đại biểu chuyên trách mà thành viên Chính phủ khi làm đại biểu phải đóng "hai vai" rất khó xử thế. Một quan điểm liên quan đến việc sửa Luật tổ chức Quốc hội đang thu hút sự quan tâm của dư luận đó là phát biểu của Bộ trưởng Tài nguyên - Môi trường Trần Hồng Hà...