Bỏ thói đố kỵ, người Việt mới có Flappy Bird thứ 2
Làn gió thực sự mới này như tạo ra một cơn mưa rào giữa cơn hạn hán của sự mất lòng tin và bi quan xuất hiện hằng ngày trong xã hội. Nó giống một liều andrenalin liều cao, gây hưng phấn nhưng cũng đồng thời bộc lộ những thói xấu cố hữu.
Một trong những điểm khiến cho kinh tế Việt Nam chưa thể cất cánh là thiếu sự hỗ trợ và ủng hộ hiệu quả cho các công ty khởi nghiệp, cả về mặt cơ chế chính sách lẫn nhận thức xã hội. Những sự kiện xảy ra vừa qua đã cho chúng ta thấy được rằng, trong xã hội Việt Nam vẫn chưa tồn tại “gien cơ bản” cho tinh thần khởi nghiệp của mỗi công dân.
Sự thành công của U-19 và thói chê bai
Hãy lấy sự thành công của đội tuyển U-19 Việt Nam làm ví dụ đầu tiên. Ai cũng biết nền bóng đá Việt Nam trong khoảng một thập kỷ trở lại đây xuống dốc một cách tệ hại. Từ khi đạt ví trị cao nhất trong bảng xếp hạng FIFA năm 1998 (hạng 84) cho đến bây giờ là năm 2014, vị trí đó cứ tụt dốc không phanh.
Quy luật tự nhiên là khi lòng tin suy giảm trong một thời gian dài, thì bất cứ nỗ lực thay đổi nào được đưa ra cũng bị đánh dấu hỏi, cũng bị người ta nghi ngờ, chê bai. Những cải thiện cần phải được nhận thấy ngay lập tức, được “sờ tận tay, day tận trán” thì mới mong tạo ra được một chút tia hy vọng, chứ không phải chỉ có nói và nói.
Thành công của U-19 nam Việt Nam xuất phát từ nhận thức của người hâm mộ về một thứ triết lý và cách làm bóng đá khác biệt so với trước đây. Một lối đã bóng đẹp mắt, mê hoặc và thân thiện tiếp thu từ phương Tây, cùng sự dũng cảm trong đầu tư và hứng chịu rủi ro của một nhà đầu tư tư nhân. U-19 Việt Nam tạo một cảm giác thực sự mới mẻ, không dẫm chân lên lối mòn của lối đá nhàm chán mà không hiệu quả trước đây. Sự mạo hiểm của bầu Đức khiến cho người hâm mộ lạc quan về một sự thay đổi có thể “sờ và nhận thấy được”, chứ không phải chỉ có nói, và nói, và nói như VFF.
Làn gió thực sự mới này như tạo ra một cơn mưa rào giữa cơn hạn hán của sự mất lòng tin và bi quan xuất hiện hằng ngày trong xã hội. Nó giống một liều andrenalin liều cao, gây hưng phấn nhưng cũng đồng thời bộc lộ những thói xấu cố hữu. Sự hưng phấn thái quá khiến cho các thất bại của U-19 tại giải Tứ hùng nhận được những lời chê bai vô tội vạ và thiếu khách quan. Họ hy vọng một cách thái quá để rồi cũng “rơi” nhanh không kém.
U-19 vẫn chỉ là U-19, họ còn trẻ, họ còn tương lai phía trước.
Flappy Bird, chú chim sớm chết yểu
Điều cần nhất ở người hâm mộ là sự động viên, đánh giá đúng mực và chê bai đúng mực. Chứ không phải là tung hô U-19 lên tận mây xanh, để rồi tự mình thất vọng, tự mình chìm đắm trong ảo tưởng do chính mình gây ra và trù dập một cách không thương tiếc.
Flappy Bird và tính đố kỵ
Một ví dụ nữa là trò chơi Flappy Bird nổi đình nổi đám trong thời gian gần đây.
Sự nổi tiếng và thành công quá nhanh của nó đã gây ra không ít bàn tán, cả khen và chê Tuy nhiên, không ít người Việt sau đó đã chỉ chăm chăm vào những thông tin xuất hiện đây đó về bản quyền, về các “mánh khóe”, hay nói tóm lại là những thông tin tiêu cực để lên án và “ném đá” tác giả trò chơi. Và cuối cùng, sự tự tin và tâm lý dám khởi nghiệp như một ngọn lửa bị dập tắt.
Video đang HOT
Đố kỵ là một tính từ mang ý nghĩa tiêu cực. Nhưng nên nhớ rằng cảm giác “đố kỵ” tùy theo nhận thức sẽ có hai tác dụng trái ngược. Đố kỵ sẽ giúp chúng ta nhận thức lại bản thân để xem tại sao mình không bằng người khác, để rồi tự mình hoàn thiện vượt qua được người mà ta đang “để ý”. Đố kỵ cũng là cảm giác ganh ghét vì thành công và sự “may mắn” bất ngờ của người khác mà mình không có được, để rồi tìm mọi cách “cào bằng” và triệt tiêu thành tựu của người khác.
Thật không may rằng, tính đố kỵ trong người Việt quá lớn. Nó xuất phát từ tâm lý tiểu nông với tư duy ngắn hạn và cục bộ. Nó cũng xuất phát từ những tư tưởng rơi rớt lại từ thời bao cấp, với thói quen san sẻ đồng đều mọi thứ, để “ai cũng được như ai”. Nó xuất phát từ việc giáo dục quá chậm đổi mới để truyền bá những tư tưởng tiến bộ hơn. Nhiều người đã nói rằng, người Việt chỉ đoàn kết trong những lúc khó khăn, chính là khi quyền lợi bản thân của mình bị đe dọa đặt trong bối cảnh chung. Thế nhưng khi không có mối đe dọa chung nào, thì người Việt lại ưa thích “triệt tiêu” lẫn nhau. Hãy nhìn sang người Hoa và cả người Thái mà xem, họ thành công là vì họ không có cái thói “triệt hạ” đó.
Quay lại trường hợp Flappy Bird, nhiều người nói rằng trò chơi không mới, là vi phạm bản quyền, xuất phát từ một số thông tin khác nhau. Ở đây không bàn đến các thông tin đó là đúng hay sai. Báo chí có quyền khai thác thông tin, đó là chức năng xã hội của họ.
Tuy nhiên, nhiều người lại “chộp” lấy đúng những thông tin đó để lấy cớ chê bai và chỉ trích. Nên nhớ rằng, sáng tạo không chỉ là phát minh ra những thứ hoàn toàn mới mẻ, mà tùy vào từng lĩnh vực khoa học nhất định, là kế thừa và phát huy thêm những nền tảng sẵn có. Có hằng hà xa số những trò chơi trùng lặp với nhau không ở chi tiết này thì là chi tiết khác, đó là đặc điểm của ngành công nghiệp game. Thế nhưng điểm khác biệt là ở chỗ, Flappy Bird đã may mắn hơn những trò chơi tương tự. Ý tưởng có thể trùng lặp, nhưng nhiều khi may mắn mới mang tính quyết định sự thành công.
Người Việt cực giỏi chê bai, họ có thể bới lông tìm vết những thứ rất nhỏ để rồi làm cho nó to lên, để thỏa sức vùi dập công sức của người khác. Còn những điểm sáng khác thì chả cần quan tâm. Nhiều người lại không nhận ra chính mình đang đố kỵ với người khác, chỉ vì tính đố kỵ đã ăn sâu tới mức chính họ cũng không nhận ra. Thói quen chê bai và “bới lông tìm vết” có thể nhận thấy ở khắp nơi. Hãy hỏi một người bạn của bạn xem, họ sẽ dễ dàng chê bai bạn với 1 trang A4, còn khen thì chỉ được vài dòng.
Một xã hội ủng hộ kinh doanh và khởi nghiệp, không chỉ cần những chính sách khuyến khích phù hợp, mà còn cần một nhận thức đúng đắn trong vấn đề này. Hai yếu tố trực tiếp quyết định tới thành công của khởi nghiệp, hay có thể là một ý tưởng mới mang tính bước ngoặt, là chính sách của chính phủ và sự năng động của bản thân mỗi người xuất phát từ một nền giáo dục hiệu quả.
Nếu không sớm thay đổi nhận thức của xã hội trong hiện tại, Việt Nam sẽ chẳng bao giờ có một Flappy Bird thứ hai, và U-19 cũng sẽ không bao giờ lớn.
Phúc Long
Theo_VietNamNet
Thị trường làm biến dạng tư duy?
Thị trường có thể ảnh hưởng giá trị tư tại của một phẩm vật khi nó được mua bán bằng tiền.Trong nhiều trường hợp, giá trị trên thị trường ắt hẳn những giá trị phi thị trường, mà chính những giá trị thị phi trường này mới đáng giữ.
Không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, mọi sinh hoạt mọi hàng hóa, mọi dịch vụ dường như ngày càng " thương mại hóa", đã nổi lên nhiều ưu tư về sự suy thoái đạo đức của xã hội lẫn con người.
Có người giải thích sự kiện này với khẳng định: Thị trường khiến con người tham lam hơn, xấu xa hơn. Song, như nhiều học giả đã lý luận: Lòng tham thì vô bờ bến, nhưng tính xấu của con người thì đã có từ khi loại người xuất hiện trên địa cầu, và chắc chắn sẽ tiếp tục cho đến ngày tận thế, trong bất cứ thể chế chính trị hoặc kinh tế nào.
Thế nên, đi tìm lý do của suy kiệt đạo đức (nếu có) đặc thù của kinh tế thị trường thì phải đưa bằng chứng là hiện tượng ấy gắn liền với những đặc tính cá biệt của thị trường, chứ không phải chỉ vị bản tính chung chung của loại người.
Vài năm gần đây, người có nhiều đóng góp nhất về vấn đề này có lẽ là Michael Sandel, Giáo sư triết học của Đại học Harvard. Khởi điểm lý luận của Sandl là câu hỏi: Vì bản chất của thị trường là thương mại, có chăng những loại phẩm vật (hàng hóa hoặc dịch vụ) mà, xét theo một tiêu chuẩn đạo đức nào đó, không nên đươc mua bán trên thị trường? Theo Sandel, nếu có những vật phẩm như thế thì sự xuất hiện thị trường cho chúng trong một xã hội sẽ làm suy bại đạo đức của xã hội ấy.
Để trả lời câu hỏi "tiền nên mua được cái gì" Sandel đề nghị hai tiêu chuẩn một là sự công bằng, hai là sự tổn thương các giá trị đạo đức.
Thứ nhất, sự lựa chọn ( trong việc mua bán ) trong một thị trường có thể phán ảnh sự bất bình đẳng thu nhập và, quan trong hơn, bất công bằng trong xã hội. Trong một xã hội mà mọi thứ đều có thể bán và mua cuộc sống của những người có thu nhập khiêm tốn sẽ khó khăn hơn. Tiền càng mua được nhiều thứ thì sự dồi dào tiền bạc càng quan trọng. Nói rõ hơn nếu lợi thế của người giàu chỉ có thể là mua xe sang, nhà đẹp, dùng hàng hiệu, du lịch nước ngoài, thì sự bất quân bình thu nhập (tuy sẽ tạo ganh tỵ) cũng không gây nhiều hậu quả tại hại.
Nhưng trên thực tế thì tiền bạc còn mua được nhiều thứ nữa: Thế lực chính trị, sức khỏe, biệt thự ở khu yên tĩnh, và con cái thì được vào những trường ưu tú...Chính những thứ này sẽ khiến độ chênh lệch thu nhập ngày càng lớn, làm sâu thêm sự bất công trong một nước và gây những chia rẽ trong xã hội nặng nề hơn từ thế hệ này sang những thế hệ tương lai...
Chính vì thế theo Sandel, xã hội phải hạn chế quyền lực của tiền bạc để giãm những hậu quả tai hại của những sự không bình đẳng ấy. Đặt một số hàng hóa dịch vụ ra ngoài sự chi phối của thị trường là một cách chặn bớt hậu quả tai hại của sự bất công bằng xã hội.
Đâu là vai trò tầm mức thâm nhập của thị trường vào đời sống cộng đồng, vào liên hệ giữa con người với nhau? Đến mức nào thì chúng ta có thể cho phép thị trường làm biến dạng tư duy của chúng ta?
Thứ hai, thị trường của một phẩm vật có thể gây thương tổn cho những giá trị của con người và xã hội. Nhìn quanh, ta thấy ngay có nhiều thứ rất tốt đẹp (tình bạn, chẳng hạn) nhưng khi gán cho một giá tiền thì giá trị của chúng sẽ gần như không còn nữa.
Một người mà anh phải trả tiền mới nhận làm (bạn) của anh thì rõ ràng không phải là bạn anh. Đừng nhầm lẫn tổng thể một thứ tốt đẹp như thế và những dịch vụ mà nó có thể "cung cấp" cho anh. Anh có thể thuê một người trông nhà (dịch vụ của một người bạn) khi anh đi vắng, thậm chí anh có thể thuê một cố vấn tâm lý để nghe anh giãi bày "tâm sự", nhưng hiển nhiên, những người này không phải là "bạn"anh theo cái nghĩa thật sự của chữ này.
Nói cách hoa mỹ, thị trường không phải là một cơ chế để phân bổ hàng hóa và dịch vụ, nó còn phản ánh và khuyến khích một thái độ nào đó đối với những hàng hóa hoặc hàng hóa được trao đổi. Thái độ này biến đổi chính bản chất của hàng hóa hoặc dịch vụ ấy.
Một ví dụ khác: khi cha mẹ cho con tiền để nó đọc sách nhiều hơn thì đúng là đứa bé ấy có thể đọc nhiều hơn, những đứa con ấy cũng gián tiếp dạy rằng là một "cực hình" hơn là một thú vui có giá trị tự tại.
Tương tự, thuê người nước ngoài để chiến đấu cho chúng ta có thể tiết kiệm sinh mạng đồng bào ta, nhưng cũng làm suy kiệt ý niệm "công dân" một nước. Như vậy, Sandel lý luận, có nhiều thứ tiền không thể mua, bởi những thứ ấy mà được bán thì chúng ta không còn là chúng ta nữa.
Trên thực tế , hai tác hại của một số thị trường như đã nói trên (không công bằng và tổn thương đạo đức) thường quyện quấn vào nhau, và không bao giờ cũng trắng đen rõ ràng: Có nhiều mức độ "không công bằng" và nhiều mức độ "tổn thương đạo đức".
Lấy "thị trường nội tạng" (để ghép) của con người làm ví dụ. Dù rằng tiền có thể mua một quả thận, một nhãn cầu, mà không làm giảm giá trị y khoa của chung, nhưng có cho phép nội tạng được tự do mua bán không?
Có hai lý do để ngăn cấm sự mua bán này: Một, thị trường ấy sẽ có khuynh hướng bóc lột những người cung cực nghèo khổ. Khó nói rằng quyết định bán thận của họ (để mua thức ăn chẳng hạn) là hoàn toàn"tự nguyện". Cho phép một thị trường như thế tồn tại là vi phạm tiêu chuẩn "công bằng" chẳng khác gì cho phép người giàu bóc lột người nghèo. Hai, thị trường ấy sẽ làm tổn thương nhân phẩm, vì trong một xã hội như thế thì hóa ra con người chỉ là một tổ hợp những "linh kiện" (máu, mắt, thận, tim, phổi...) có thể lấy từ thân thể người bán thay thế những bộ phận " hỏng hóc" ở thân thể người mua. Rõ ràng tư duy ấy sẽ xúc phạm trầm trọng chuẩn mực đạo đức của đa số chúng ta.
Trẻ em là một ví dụ. Hiển nhiên, nếu muốn, chúng ta có thể cho phép một "thị trường"con nuôi. Nhưng không nên cho phép thị trường ấy vì hai lý do: Thứ nhất là vì công bằng. Một thị trường như thế sẽ thiên vị những người giàu có, bởi lẽ những người thu nhập thấp mà muốn có con nuôi thì chỉ "mua " được những đứa trẻ ít người muốn "mua" (vì đứa bé có dị tật hay thiểu năng, chẳng hạn). Thứ hai là thị trường ấy sẽ xúc phạm những giá trị nhân bản ấy. Gắn cho trẻ em một giá trị chuẩn mực "yêu thương" vô điều kiện" của cha mẹ đối với con cái, mà mọi xã hội xưa nay đều coi là thiêng liêng, sẽ không còn nữa.
Hơn nữa, sự chênh lệch giá cả (chắc chắn sẽ xảy ra) giữa em này với em khác sẽ cũng cố ấn tượng rằng giá trị một đứa bé phù thuộc vào chủng tộc, giới tính, tiềm năng trí tuệ, thể hình của nó. Tương tự "thị trường"nô lệ là kinh tởm vì nó xem con người như một loại hàng hóa, có thể (đấu giá) bán và mua"nhân phẩm"là vô nghĩa trong những cuộc đấu giá như thế.
Một ví dụ nữa: Lá phiếu của công dân một quốc gia dân chủ cũng không thể mua hoặc bán (dù có người sẵn sàng mua!) vì bổn phận mỗi người dân là trách nhiệm công đồng, không thể xem là sở hữu của cá nhân. Cho phép mua bán lá phiếu hạ thấp giá trị của nó, cho nó một nghĩa khác.
Những ví dụ trên đầy đủ cho thấy giá trị của nhiều vật phẩm sẽ sút giảm, hoặc mất hẳn, nếu chúng có thể được bán trên thị trường. Khi chúng ta quyết định rằng một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó có thể mua và bán là chúng ta mặc nhiên chấp nhận rằng hàng hóa ấy có thể được xem như một món đồ, là một công cụ để sử dụng kiếm lời. Không phải giá của mọi thứ (ví dụ sức khỏe, giáo dục, đời sống gia đình, thiên nhiên, nghệ thuật, trách nhiệm công dân....) đều là như vậy. Để quyết định thứ nào được phép buôn bán, thứ nào không xã hội phải thỏa thuận cách thẩm định giá trị thật của chúng. Đó là vấn đề thuộc phạm trù đạo đức và chính trị, không chỉ kinh tế, và lời giải sẽ tùy mỗi trường hợp, không có một đáp số chung cho mọi thứ, mọi thời.
Cho đến gần đây một giả định căn bản trong kinh tế học là sự "trung tính" của thị trường, nghĩa là bản chất hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi sẽ không bị ảnh hưởng của thị trường. Nhưng Sandel và nhiều người khác đã phát hiện giả định này không luôn luôn đúng. Thị trường có thể ảnh hưởng giá trị tư tại của một phẩm vật khi nó được mua bán bằng tiền.Trong nhiều trường hợp, giá trị trên thị trường ắt hẳn những giá trị phi thị trường, mà chính những giá trị thị phi trường này mới đáng giữ.
Tất nhiên không phải mọi người đều đồng ý giá trị nào là đáng giữ và tại sao chúng đang giữ. Do đó, để quyết định cái gì nên được mua bán trên thị trường, và cái gì không nên, chúng ta phải quyết định giá trị nào cần được bảo tồn trong bối cảnh khác nhau.
Theo Sandel, nên phân biệt kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một công cụ để cơ cấu hoạt động sản xuất và phân bổ sản phẩm. Dù không tuyệt hảo (ngay những nhà kinh tế chuộng thị trường cực đoan cũng nhìn nhận rằng thị trường có nhiều "thất bại" cần sự can thiệp của Nhà nước), công cụ ấy có những lợi ích và hiệu quả khó chối cãi.
Xã hội thị trường, mặt khác, là lối sống của con người trong xã hội trong đó giá trị thị trường chi phối mọi hoạt động tư duy.
Như vậy, thị trường ngoài nhưng "thất bại " theo nghĩa thông thường còn có những ảnh hưởng sâu sắc, có thể là tai hại, đến đạo đức xã hội. Chúng ta có muốn trở thành một xã hội thị trường trong đó những liên hệ xã hội được tái lập theo hình mẫu của thị trường không?
Đâu là vai trò tầm mức thâm nhập của thị trường vào đời sống cộng đồng, vào liên hệ giữa con người với nhau? Đến mức nào thì chúng ta có thể cho phép thị trường làm biến dạng tư duy của chúng ta?
Đó là những vấn đề cần suy nghĩ.
GS Trần Hữu Dũng
Theo Thời báo Kinh tế Sài gòn
(Tiêu đề do Tuần Việt Nam)
Theo VNN
Toàn cảnh vụ tàu cánh ngầm cháy rụi trên sông Khoảng 13h30 chiều 20.1, tàu cánh ngầm của hãng Vinaxpress xuất phát từ bến Bạch Đằng (Q.1, TP.HCM) đi Vũng Tàu đã bất ngờ bốc cháy dữ dội trên sông đoạn gần cầu Phú Mỹ (Q.7). 83 hành khách đã phải lao xuống sông... Chiếc tàu cánh ngầm bốc cháy khi đang chở 83 hành khách và mới rời bến Bạch Đằng được...