Bộ Tài chính: Tháo gỡ khó khăn nguồn vốn xây dựng tuyến metro số 1, số 2
Ngày 6/9, Bộ Tài chính đã có ý kiến về việc Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh có văn bản kiến nghị Bộ nhanh chóng tháo gỡ khó khăn về vốn để đảm bảo tiến độ xây dựng 2 tuyến metro số 1 và số 2.
Quang cảnh khu vực bốc dỡ đoàn tàu số 4 và số 5 của tuyến metro số 1 tại cảng Khánh Hội (Quận 4, TP Hồ Chí Minh), chiều 20/6/2021. Ảnh: Tiến Lực/TTXVN
Theo đó, đối với dự án tuyến metro số 1, Bộ Tài chính cho biết dự án có vướng mắc vì căn cứ quy định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán phần vốn cấp phát cho dự án theo VNĐ tại thời điểm phê duyệt Quyết định đầu tư dự án ban đầu, nay áp dụng đồng tiền vay là JPY (tiền Yên Nhật) có chênh lệch.
Về vấn đề tỷ lệ cấp phát/cho vay lại, căn cứ ý kiến đồng thuận của TP Hồ Chí Minh, Bộ Tài chính đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận về tỷ lệ cấp phát dự án là 67,5%/tổng vốn vay theo tổng mức đầu tư ban đầu, phần tổng mức đầu tư tăng thêm áp dụng cơ chế cho vay lại toàn bộ.
Để thúc đẩy giải quyết dứt điểm vấn đề này, Bộ Tài chính đề nghị Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh cần thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định số vốn cấp phát cho dự án phù hợp với cơ chế tài chính đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Bộ Tài chính khẳng định, ngay khi dự án được giao kế hoạch vốn cấp phát và có đề nghị rút vốn, Bộ Tài chính sẽ thực hiện rút vốn.
Video đang HOT
Đối với dự án tuyến metro số 2, theo Bộ Tài chính, căn cứ các Quyết định của Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh và quyết định của các cấp có thẩm quyền về việc phê duyệt dự án, Bộ Tài chính đã ký các Hiệp định vay từ các nguồn Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (EIB) và Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) cho dự án.
Tuy nhiên, tiến độ thực hiện dự án rất chậm, phần lớn giá trị vốn vay đã cam kết phải hủy và mới chỉ giải ngân cho chi phí tài chính khoảng 40,34 triệu USD, chưa giải ngân cho xây lắp, mua sắm thiết bị. Đến nay, toàn bộ các Hiệp định vay tài trợ dự án đều đã hết hạn giải ngân/đã hủy.
Đối với việc gia hạn thời gian giải ngân dự án nguồn vay KfW, tại thư ngày 5/8/2021 gửi Bộ Tài chính, KfW chỉ đồng ý gia hạn thời hạn giải ngân của phần vốn viện trợ không hoàn lại (đến ngày 30/12/2026). Đối với phần vốn vay, Bộ Tài chính vẫn chưa nhận được ý kiến đồng thuận của KfW về việc gia hạn và điều chỉnh lịch trả nợ gốc.
Bộ Tài chính cho biết đã có ý kiến, đề nghị và Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh cập nhật về tiến độ triển khai dự án đến nay. Đồng thời, có ý kiến về các đề xuất của KfW nêu tại thư ngày 5/8/2021; đề xuất ý kiến trao đổi với KfW về trách nhiệm trả phí cam kết đối với phần vốn vay theo quy định của thỏa thuận vay trong giai đoạn từ khi hết hạn giải ngân vào ngày 30/12/2020 đến khi KfW đồng ý tiếp tục gia hạn thời hạn giải ngân (ở mức 0,25%/năm tính trên số vốn chưa rút) trong trường hợp KfW đồng ý việc gia hạn đối với phần vốn vay.
Căn cứ ý kiến trả lời của và Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh về nội dung này, Bộ Tài chính cho biết sẽ tiếp tục trao đổi với KfW về việc gia hạn thời hạn giải ngân khoản viện trợ và khoản vay. Vướng mắc lớn nhất hiện nay là Ban Quản lý dự án và Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh chậm trễ trong việc triển khai dự án và trả lời các kiến nghị của Nhà tài trợ.
Bộ Tài chính: Nghiên cứu để đề xuất thuế xuất khẩu phôi thép phù hợp
Ngày 6/9, Bộ Tài chính cho biết, trên cơ sở ý kiến của Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hiệp hội Thép Việt Nam và các doanh nghiệp sản xuất thép, Bộ đang nghiên cứu, rà soát để có mức thuế suất phù hợp đối với mặt hàng phôi thép.
Bộ Tài chính cho biết, theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016 và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP, thuế xuất khẩu được áp dụng chủ yếu đối với những mặt hàng là tài nguyên, khoáng sản không tái tạo cần giữ lại cho sản xuất trong nước. Mức thuế xuất khẩu được xây dựng dựa theo nguyên tắc áp dụng mức cao đối với nguyên liệu, tài nguyên ở dạng thô và giảm dần đến các sản phẩm có mức độ chế biến cao hơn nhằm hạn chế xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên chưa qua chế biến.
Theo nguyên tắc này, mức thuế xuất khẩu đối với nhóm nguyên liệu thô để sản xuất thép là quặng, thép phế liệu hiện nay đã được quy định trên cơ sở bằng mức trần khung thuế xuất khẩu (40% đối với quặng và 15 - 17% đối với phế liệu). Riêng mặt hàng phôi thép (thép thô), đây là bán thành phẩm được sản xuất từ quặng và thép phế liệu nên mức thuế suất thuế xuất khẩu đang được quy định là 0%.
Theo Bộ Công Thương, năm 2021, phôi thép các loại trong nước sản xuất dự kiến đạt khoảng 21,2 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và dành cho xuất khẩu. Số liệu của Hiệp hội Thép cho thấy năm 2020, xuất khẩu phôi thép đạt khoảng 4 triệu tấn và trong 6 tháng đầu năm 2021 là 1,7 triệu tấn, giảm 9% so với cùng kỳ. Năm 2020, hai doanh nghiệp sản xuất phôi thép xuất khẩu lớn nhất là Tập đoàn Hòa Phát xuất khẩu 1,65 triệu tấn và Công ty Formosa xuất khẩu 1,48 triệu tấn, chiếm hầu hết sản lượng phôi xuất khẩu của cả nước.
Để đạt được sản lượng và mức đầu tư ngành phôi thép như hiện nay, Bộ Tài chính cho biết, Chính phủ đã có nhiều giải pháp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất như áp dụng chính sách thuế (thuế xuất khẩu 0%), áp dụng thuế nhập khẩu và thuế phòng vệ thương mại để hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu.
Theo đó, ngành thép từng bước tự chủ được công nghệ và năng lực sản xuất phôi thép, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất thép xây dựng trong nước và xuất khẩu được ra nước ngoài.
Bộ Công Thương và Hiệp hội Thép Việt Nam đánh giá việc tăng giá phôi thép thời gian qua chủ yếu do giá nguyên liệu đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao và sản xuất phôi thép trong nước phần lớn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là quặng sắt và thép phế liệu. Trên 90% quặng để sản xuất phôi trong nước hiện nay là từ nhập khẩu.
Về sản lượng sản xuất, theo báo cáo của Bộ Công Thương, trong nước sản xuất phôi thép đang dư thừa công suất. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng việc đặt vấn đề tăng thuế xuất khẩu phôi thép sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất phôi thép do dư thừa công năng, làm gia tăng hàng tồn kho.
Đồng thời, các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, nguồn cung phôi thép sản xuất trong nước đang dư nên việc tăng thuế xuất khẩu phôi thép cũng chưa hẳn sẽ góp phần làm giảm giá thành thép thành phẩm. Để thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững, hạn chế việc khai thác nguồn điện giá rẻ, sản xuất phôi thép cần phải có các giải pháp tổng thể khác.
Do đó, trên cơ sở ý kiến của Bộ Công Thương, VCCI, Hiệp hội Thép Việt Nam và các doanh nghiệp sản xuất thép nêu trên, Bộ Tài chính đang nghiên cứu, rà soát để có mức thuế suất phù hợp đối với mặt hàng phôi thép.
Trước đó, VCCI đã có văn bản góp ý dự thảo nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP về Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá lại nguyên nhân dẫn đến việc giá thép xây dựng tăng cao, đồng thời rà soát, đánh giá toàn diện tác động của việc điều chỉnh thuế với phôi thép, từ đó xây dựng phương án điều chỉnh phù hợp.
Bộ Tài chính bác kiến nghị bỏ thuế VAT với vải trong nước sử dụng may xuất khẩu Bộ Tài chính vừa có trả lời về kiến nghị bỏ quy định nộp thuế VAT đối với vải trong nước sử dụng may xuất khẩu của Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas). Sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tại Công ty Cổ phần dệt may Sơn Nam, Nam Định. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN Theo Bộ Tài...