Bổ sung vi chất dinh dưỡng như thế nào?
Vitamin và muối khoáng hay còn gọi là các vi chất dinh dưỡng. Cơ thể hàng ngày chỉ cần một lượng rất ít nhưng thiếu nó có thể gây ra một số bệnh đặc thù.
Một ví dụ là thiếu vitamin A gây nên bệnh khô mắt có thể dẫn đên mù lòa, gây tổn thương các tế bào biểu mô, làm giảm sút sức đề kháng đối với sự xâm nhập của các vi sinh vật gây bệnh. Ngoài ra, thiếu vitamin A còn làm giảm khả năng đáp ứng miễn dịch dễ mắc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp và tiêu hóa.
Các loại trái cây, rau quả dùng thường ngày chứa đủ vi chất dinh dưỡng
Thiếu vitamin D, canxi dẫn đến bệnh, loãng xương. Thiếu vitamin nhóm B nhất là vitamin B1 dẫn đến bệnh tê phù. Thiếu sắt dẫn đên thiếu máu…
Trong các loại thức ăn hàng ngày thường chứa đầy đủ các vi chất dinh dưỡng này, nhưng trong một số trường hợp do ăn quá ít hoặc rối loạn hấp thu thì có thể bị thiếu các vitamin và muối khoáng. Khi thiếu các vi chất dinh dưỡng lại làm sự chán ăn tăng lên tạo thành một vòng luẩn quẩn bệnh lý rất khó giải quyết. Trong những trường hợp này, việc bổ sung các vi chất dinh dưỡng bằng thuốc là cần thiết.
Muốn biết bổ sung bao nhiêu cần phải biết nhu cầu về các vi chất dinh dưỡng này như thế nào, khi bổ sung dưới dạng thuốc bao giờ cũng phải bổ sung thấp hơn nhu cầu một chút hoặc bằng nhu cầu, trừ các trường hợp đặc biệt phải theo chỉ định của thầy thuốc.
Nhu cầu về vi chất dinh dưỡng trong 1 ngày (người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên):
- Can xi: 600 – 700mg, riêng đối với phụ nữ có thai và cho con bú: 1.000 – 1.200mg.
- Sắt: phụ nữ cần gấp đôi nam giới: 24mg, trong trường hợp thiếu máu do thiếu sắt có thể dùng 60mg/ngày.
Video đang HOT
- Vitamin A: 500 – 600 mcg/ngày.
- Vitamin D: 400 UI.
- Vitamin C: 70mg, khi bị chảy máu chân răng, xuất huyết dưới da có thể dùng 500mg/ngày.
- Vitamin B1: 1,8 – 2mg.
- Vitamin B2: 1,3mg.
- Vitamin B12: 2 mcg.
- Vitamin PP: 12mg.
- Kẽm: 8 – 10mg.
- Magiê: 200 – 300mg.
- Iod: 0,14mg.
Trên thị trường các vi chất dinh dưỡng này thường dưới dạng tổng hợp nhiều loại trong một sản phẩm, khi dùng cần có sự chỉ định của thầy thuốc vì tuy là thuốc bổ nhưng nếu uống quá nhiều vẫn có thể gây tác hại cho cơ thể.
Trong một số trường hợp bị mắc một số bệnh đặc thù như: thiếu máu thiếu sắt, thiếu iod dẫn đến bướu cổ, chảy máu chân răng, xuất huyết dưới da do thiếu vitamin C, tê phù do thiếu vitamin B1… phải dùng liều cao các loại chế phẩm chỉ có chứa các loại vi chất này với thời gian và liều lượng dùng theo chỉ định của bác sĩ.
Theo SKĐS
Vì sao sữa mẹ là thức ăn tốt nhất của bé?
Ai cũng biết sữa rất tốt với trẻ nhỏ và sữa mẹ luôn là số 1 trong tất cả các loại sữa. Tuy nhiên, thành phần nào làm nên vị trí "đỉnh cao" này và sữa mẹ thực sự có tác dụng như thế nào thì không phải ai cũng biết.
Những thành phần tuyệt hảo
Sữa mẹ là một dạng mô sống ở thể lỏng tương tự như máu với khoảng 4.000 tế bào sống hoạt động trong 1ml sữa, tập hợp phong phú các yếu tố hoá sinh ở dạng đang hoạt động với một số lượng lớn các hooc-môn và yếu tố tăng trưởng.
Trong sữa mẹ còn có ít nhất 60 loại enzym, các chất dinh dưỡng đa lượng và vi lượng mà không có bất cứ loại sữa nào có được. So với sữa bò thì sữa mẹ ưu việt hơn rất nhiều về thành phần dinh dưỡng.
Trong sữa bò hàm lượng protein cao hơn sữa mẹ gấp 3 lần - là hàm lượng không thích hợp cho trẻ trong quá trình tiêu hoá. Thành phần cơ bản của protein sữa mẹ và sữa bò là casein và whey - nhưng trong sữa bò tỉ lệ giữa 2 thành phần này là 3:1 còn trong sữa mẹ là 1:3 - đây là tỷ lệ lí tưởng cho quá trình tiêu hoá của trẻ. Trong sữa mẹ chất alpha- lactoglobulin chiếm ưu thế- trong khi ở sữa bò chất beta- lactoglobulin lại là chủ yếu. Mà beta- lactoglobulin là tác nhân gây dị ứng cho trẻ.
Sữa mẹ cho năng lượng cao hơn sữa bò. Chất đường trong sữa mẹ có nhiều lactose gấp 2 lần sữa bò, rất cần thiết cho sự phát triển thần kinh và giúp các vi khuẩn có ích trong đường ruột phát triển. Chất béo cao hơn sữa bò trong sữa mẹ có vai trò là chất chuyên chở những vitamin tan trong chất béo như vitamin A và D cùng với axít linoleic - đóng vai trò sống còn cho sự phát triển thần kinh và các chức năng mô. Hàm lượng vitamin A trong sữa mẹ cao gấp 2 lần sữa bò, nên trẻ bú sữa mẹ không bao giờ thiếu vitamin A.
Mang đến sự phát triển tối ưu
Việc cho con bú sữa mẹ trong năm đầu tiên đang được khuyến khích tại nhiều nước châu Âu. Tại Thuỵ Điển đã có 98% phụ nữ cho con bú hoàn toàn sau khi sinh.
Những đứa trẻ được bú sữa mẹ trong năm đầu nhanh biết nói và học sáng dạ hơn, đến khi trưởng thành là những người có tính tự lập cao, có IQ cao hơn so với những đứa trẻ chỉ được bú mẹ 1-2 tháng đầu hoặc không được bú mẹ.
Cho con bú làm gia tăng sức đề kháng của trẻ trước các bệnh thông thường và các bệnh tim mạch bởi vì sữa mẹ trong những ngày đầu chứa nhiều protein. Trong đó 50% hàm lượng protein là các globulin miễn dịch (chủ yếu là IgA), có tác dụng chống lại các vi khuẩn, virus gây bệnh.Trong khoảng 2 tháng đầu tiên, sữa mẹ được coi là liều văcxin hiệu nghiệm cho cơ thể non yếu của trẻ.
Trẻ bú sữa mẹ (ít nhất 6 tháng đầu) có thể tránh được nguy cơ mắc nhiều loại bệnh cấp và mãn tính như tiêu chảy, nhiễm trùng đường hô hấp... Trong sữa mẹ có lactoferin- một protein gắn với chất sắt ngăn chặn sự phát triển của một số vi khuẩn có hại. Sự hiện diện của dưỡng chất tự nhiên nucleotide trong sữa mẹ với hàm lượng 69-72mg/l giúp tăng cường đề kháng với bệnh nhiễm khuẩn như bạch hầu, viêm màng não.
Sữa mẹ là nguồn duy nhất cung cấp cho trẻ taurine để phát triển não bộ và võng mạc mắt.
Những trẻ được bú mẹ rất ít bị mắc các khuyết tật về phát âm, vì việc bú mẹ giúp bé phát triển đồng bộ hệ cơ xương ổ miệng và má.
Cho con bú sẽ giúp dạ con của người mẹ sớm co lại như lúc ban đầu. Như vậy, sẽ làm giảm băng huyết, tránh thiếu máu và giảm nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư vú cho người mẹ.
Theo Dân Trí
Chọn thức ăn theo thể trạng mát hay nóng Ăn quá nhiều thức ăn chứa chất xơ, nước, muối khoáng và sinh tố mà bữa ăn lại ít năng lượng sẽ dẫn tới tình trạng cơ thể thường ớn lạnh, tiêu chảy, dễ phiền muộn... Có một số thức ăn có thể làm cho cơ thể ấm áp hơn hoặc mát mẻ, dễ chịu. Chúng ta gọi là thức ăn có tính...