Bloomberg: Người Trung Quốc đang đưa cả thế giới “từ bàn ăn ra nghĩa địa” như thế nào?
Dù các cơ quan chức năng của nhiều nước đã cố gắng nhưng những món tôm, thủy sản Trung Quốc giúp đưa người tiêu dùng từ bàn ăn đến nghĩa địa nhanh hơn vẫn xuất hiện tràn lan trên thị trường.
Nếu nhìn từ trên không, vùng đồng bằng sông Châu Giang-Trung Quốc nhìn chằng chịt những khối ao nuôi tôm cá của hàng trăm nghìn hộ dân nằm xen kẽ với hàng loạt các chuồng trại nuôi gia súc. Không có gì khó hiểu khi đây là cùng trung tâm của ngành nông nghiệp nuôi trồng thủy sản tại quốc gia sản xuất nhiều hải sản nhất thế giới.
Ngành nông nghiệp Trung Quốc hàng nghìn năm nay đã quá quen thuộc với hình thức vườn ao chuồng, khi những chất thải của chăn nuôi chuồng trại được làm thức ăn cho cá tôm nuôi. Tuy nhiên, với đà phát triển của kháng sinh cũng như sự đam mê lợi nhuận, mô hình này giờ đây đã bị ảnh hưởng mạnh.
Tại các trang trại ở Giang Môn hay một số vùng Quảng Đông-Trung Quốc, những người nông dân trộn rất nhiều kháng sinh vào thức ăn lợn và chất thải từ những chuồng lợn này với hàm lượng kháng sinh cực cao lại được để nuôi tôm cá.
Thông thường, nông dân Trung Quốc sẽ trộn tối thiểu 3 loại kháng sinh trong thức ăn lợn bao gồm cả Colistin, một chất kháng sinh bị cấm dùng cho chăn nuôi ở Mỹ.
Nếu nhìn những thùng rác quanh các trại chăn nuôi này, người ta có thể dễ dàng thấy vỏ hộp của khoảng 9 loại kháng sinh khác nhau. Trong đó 7 loại bị Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá là có ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể người.
Vỏ thuốc kháng sinh bị vứt bừa bãi quanh các trại nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi ở Quảng Đông
Siêu vi khuẩn và cái chết không báo trước
Hiện tượng lạm dụng kháng sinh đang tạo nên những loại siêu vi khuẩn và bệnh dịch kháng thuốc làm đau đầu các nhà nghiên cứu. Chính phủ Anh ước tính hàng năm có khoảng 700.000 người trên thế giới tử vong do vi khuẩn chống lại được kháng sinh. Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn mà không có hành động từ chính phủ các nước, con số này có thể đạt 10 triệu người mỗi năm vào năm 2050, cao hơn cả số người bị tử vong do ung thư.
Năm 2015, các nhà khoa học đã công bố một thông tin chấn động toàn thế giới. Họ đã phát hiện ra một gen kháng Colistin ở Trung Quốc, qua đó biến hàng tá vi khuẩn và dịch bệnh ở nước này thành những siêu vi khuẩn chống lại kháng sinh hiện hành.
Tồi tệ hơn, kể từ đó đến nay người ta đã tìm được các gen này trong hàng loạt bệnh nhân, thực phẩm hay những mẫu môi trường tại hơn 20 nước khác nhau, đặc biệt là những quốc gia nhập nhiều thực phẩm từ Trung Quốc.
Theo giáo sư Mrtin Blaser của trung tâm y tế Langone-Mỹ và là Chủ tịch hội đồng cố vấn của Tống thống Obama về vấn đề siêu vi khuẩn nhận định chính nguồn thực phẩm Trung Quốc là nguyên nhân lớn nhất khiến cả thế giới bị lây lan rủi ro về siêu vi khuẩn.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khoảng 90% kháng sinh trong thức ăn cho lợn được đào thải qua nước tiểu và phân, vốn là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho chăn nuôi thủy sản ở Trung Quốc. Thêm vào đó, người nông dân cũng trộn cả kháng sinh cho thức ăn chăn nuôi thủy sản, khiến nồng độ thuốc trong tôm cá và nước ao hồ ở đây lên mức cao chưa từng có.
Nông dân Trung Quốc thường trộn rất nhiều kháng sinh vào thức ăn chăn nuôi
Nguy hiểm hơn, những dòng nước thải của các khu vực chăn nuôi này được xả thẳng ra sông hồ. Cụ thể, những trại chăn nuôi ở Giang Môn xả thẳng nước thải ra lưu vực sông phía Tây Trung Quốc, qua đó làm ô nhiễm toàn bộ vùng đồng bằng sông Châu Giang, bao gồm Quảng Đông, Hồng Kông, Macao, Thẩm Quyến…
Một nghiên cứu năm 2013 cho thấy mỗi năm khu vực sông hồ tại đây nhận khoảng 213 tấn kháng sinh xả thải hàng năm, một con số khiến nhiều người lo sợ.
Số liệu của Liên hợp quốc (UN) cho thấy kim ngạch thương mại thủy sản của Trung Quốc vào khoảng 90 tỷ USD và chiếm 50% giao dịch trên toàn thế giới. Quốc gia này cũng cung cấp khoảng 60% thủy sản cho thị trường toàn cầu và đang là nhà xuất khẩu hải sản lớn nhất thế giới.
Một khu vực chăn nuôi thủy sản tại Quảng Đông
Ngay cả chính phủ Mỹ cũng đã nhận ra được sự nguy hiểm từ thực phẩm Trung Quốc trong hơn 10 năm qua nhưng họ không thể ngăn chặn hoàn toàn. Một cuộc khảo sát năm 2006 của Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) đối với hàng thủy sản nhập khẩu Trung Quốc cho thấy có đến 1/4 số mẫu chứa các loại chất cấm hoặc những phụ gia không an toàn.
Video đang HOT
Vào cùng năm đó, chính FDA đã phải ban hành quy định tất cả các lô hàng tôm và hải sản nhập khẩu từ Trung Quốc phải bị tạm giữ tại cảng chờ xét nghiệm rồi mới được thông qua.
Tuy vậy, quy định này cũng không khiến hàng thủy sản Trung Quốc an toàn hơn tại Mỹ khi các doanh nghiệp có vô vàn cách khác nhau để trốn tránh nhà chức trách, như cách họ đã làm với mặt hàng thép. Theo đó, các công ty này di chuyển mặt hàng thủy sản qua nhiều nước để xóa xuất xứ và nhập khẩu vào Mỹ, một hệ thống tinh vi mà các chuyên gia đánh giá là không khác gì các băng đảng tội phạm đang rửa tiền.
Chính phủ bất lực
Chính quyền Bắc Kinh cũng đã nhận ra tình trạng dùng kháng sinh vô tội vạ tại các trại chăn nuôi và từ năm 2011, Trung Quốc đã thực hiện các chương trình nhằm hạn chế việc sử dụng kháng sinh trong y tế. Kể từ đó, tỷ lệ dùng kháng sinh tại một số nơi như thành phố Thượng Hải đã giảm 31% và mới đây còn có đề xuất cấm sử dụng Colistin trong chăn nuôi tại Trung Quốc.
Dẫu vậy, tình hình đã trở nên quá nghiêm trọng khi Trung Quốc đang là nước có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới. Khảo sát trên toàn Trung Quốc cho thấy 42-83% số người khỏe mạnh được thử nghiệm có chứa siêu vi khuẩn đủ khả năng chống lại kháng sinh Penixilin cũng như những biến thể của nó.
Trong khi đó, khảo sát thị trường tại Thượng Hải cho thấy hầu hết các sản phẩm thủy sản ngoài chợ có chứa những vi khuẩn không thể tiêu diệt bằng kháng sinh thông thường. Một nghiên cứu kéo dài trong khoảng 2006-2011 đã thu thập số liệu ở Thượng Hài và có kết luận 1/3 số hải sản ở đây chứa Sa;monella, loại vi khuẩn gây viêm dạ dày ở người và điều nguy hiểm là 43% mẫu vi khuẩn tìm thấy ở Thượng Hải có khả năng kháng thuốc mạnh.
Trước đây, nhiều chuyên gia cho rằng sự lây lan của những siêu vi khuẩn chủ yếu thông qua bằng đường du lịch, vận chuyển khi những người nước ngoài tiêu thụ thực phẩm, thuốc ở những nước khác. Dù những nghi ngờ về thực phẩm Trung Quốc là nguyên nhân chính thay vì du lịch đã manh nha từ sớm nhưng chưa có bằng chứng khoa học cụ thể nào chứng minh được điều đó cho đến năm 2015.
Các cửa hàng bán kháng sinh chăn nuôi có khá nhiều tại Trung Quốc với khâu kiểm định chất lượng rất kém
Khi đó, một nghiên cứu của phòng phân tích vi sinh học quốc gia NML-Canada cho thấy tất cả những mẫu dương tính với siêu vi khuẩn từ các sản phẩm thủy sản đều đến từ Đông Nam Á và Trung Quốc.
Kể từ thập niên 90, lượng tiêu thụ tôm hàng năm của người Mỹ đã tăng gấp đôi và trở thành một món ăn chủ đạo. Vào thập niên 80, phần lớn tôm Mỹ được nuôi trồng trong nước nhưng tình hình này đã phải thay đổi khi nhu cầu tăng quá mạnh.
Trong khoảng 1990-2006, lượng tôm nhập khẩu vào Mỹ đã tăng gấp đôi, đạt khoảng 0,6 triệu tấn mỗi năm hiện nay và khoảng 90% số tôm trên bàn ăn người Mỹ hiện được nuôi trồng từ nước ngoài.
Năm 2003, tỷ lệ tôm nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ đã đạt mức kỷ lục trong 11 năm trước đó với 16% thị phần và đến năm 2004, Bộ thương mại Mỹ đã phải áp thuế chống bán phá giá 112% cho sản phẩm này.
Một hệ thống không khác gì rửa tiền
Nhằm đối phó với các rào cản thương mại của Mỹ về thực phẩm, các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng nên một hệ thống tinh vi nhằm xóa bỏ xuất xứ các hàng thủy sản đông lạnh xuất khẩu.
Theo thống kê của chính phủ Mỹ, lượng nhập khẩu tôm từ Malaysia năm 2004 bất ngờ tăng gấp 10 lần sau khi Mỹ bắt đầu áp thuế chống bán phá giá cho tôm từ Trung Quốc. Lượng tôm nhập khẩu này tăng đều và chiếm tới 5% thị trường tôm tiêu thụ tại Mỹ trong khoảng 2008-2011.
Hiện nhiều quan chức Mỹ cho rằng lượng lớn tôm nhập khẩu từ Malaysia thực chất là từ Trung Quốc bởi nước này sản xuất tôm tùy thuộc vào mùa vụ. Năm 2015, nước này chỉ sản xuất được 32.000 tấn tôm và khoảng 18.000 tấn đã được tiêu thụ trong nước, 12.000 tấn được xuất sang Singapore nên số còn lại không đủ để chiếm lĩnh các thị trường khác.
Một sự trùng hợp thú vị là lượng nhập khẩu thủy sản từ Trung Quốc vào Malaysia lại tăng đột biến trong 10 năm qua với mức bình quân 20.000 tấn/năm.
Năm 2011, 75% số tôm chứa các chất cấm được nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ, chỉ 6% là từ Malaysia. Tuy nhiên năm 2015, có 77% số tôm chứa chất cấm nhập vào Mỹ là từ Malaysia.
Theo các nhà chức trách Mỹ, việc vận chuyển tôm từ Trung Quốc sang Malaysia và đổi giấy xuất xứ là chuyện vô cùng bình thường khi các công ty dịch vụ môi giới có thể hoàn thành thủ tục giấy tờ dễ dàng.
Tháng 4 vừa qua, FDA đã phải cảnh báo có thể sẽ bắt giữ và kiểm tra tất cả các lô hàng tôm, thủy sản từ Malaysia và một số nước để tiến hành xét nghiệm trước mỗi quan ngại làm giả giấy tờ cũng như xuất xứ của các mặt hàng này. Đáp lại, Bộ y tế Malaysia cam kết sẽ thắt chặt việc kiểm soát các nhà máy chế biến tôm cũng như thẩm quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ từ phòng thương mại.
Không dừng lại đó, mặt hàng đông lạnh thủy sản còn được các doanh nghiệp Trung Quốc xuất sang nhiều nước trước khi được xuất khẩu sang Mỹ nhằm tránh sự truy tra của các cán bộ hải quan khi Malaysia đã bị nghi ngờ. Một trong những nước được Trung Quốc nhắm đến hiện nay là Ecuador khi lượng tôm nhập từ Trung Quốc vào đây để tuồn vào Mỹ thời gian qua bắt đầu tăng lên.
Rõ ràng, lợi nhuận của ngành thủy sản khiến các doanh nghiệp Trung Quốc không từ thủ đoạn nào để tuồn những thực phẩm bẩn từ nước họ sang các thị trường khác. Dù các cơ quan chức năng của nhiều nước đã cố gắng nhưng những món tôm, thủy sản Trung Quốc giúp đưa người tiêu dùng từ bàn ăn đến nghĩa địa nhanh hơn vẫn xuất hiện tràn lan trên thị trường.
(Theo Thời Đại)
Hanjin đã bị "chơi xỏ" khi phá sản, nhưng kẻ chủ mưu cũng chẳng khá hơn bao nhiêu
Một số chuyên gia nhận định hài hước rằng những con quái thú khổng lồ trên biển mà Maersk tạo ra như Triple E hoạt động "quá tốt", chúng không chỉ nghiền nát những đối thủ yếu hơn như Hanjin mà còn sắp đánh chìm cả chính Maersk Line
Vụ tập đoàn vận tải biển lớn thứ 7 thế giới Hanjin phá sản được nhiều chuyên gia nhận định là do Ngân hàng phát triển Hàn Quốc (KDB), chủ nợ lớn nhất của công ty, ngừng cho vay thêm. Tuy nhiên, sự thật là ngành công nghiệp tàu biển của Hàn Quốc đã gặp khó khăn rất nhiều trong những năm gần đây do thương mại giảm sút.
Đặc biệt hơn, rất có thể việc Hanjin phá sản là do tác động cố ý của những ông lớn trong ngành như Maersk Line nhằm kiếm thêm thị phần.
Ngành vận tải biển đang dư thừa 30% công suất
Việc Hanjin phá sản cho thấy rõ ràng rằng thế giới không cần những con tàu chở hàng khổng lồ, thậm chí với tình trạng suy giảm thương mại trên toàn cầu hiện nay thì người tiêu dùng còn cần ít tàu chở hàng hơn trước.
Rất nhiều công ty đã bị sốc trước thông tin Hanjin phá sản và nhiều bến cảng không chấp nhận cho tàu chở hàng của hãng được neo đậu hay dỡ hàng. Nhiều doanh nghiệp đang phải đứng ngồi không yên khi kỳ mua sắm cuối năm đến gần và họ có thể thua lỗ lớn nếu chậm giao hàng.
Dẫu vậy, vụ việc của Hanjin đã đánh lên hồi chuông cảnh tỉnh một lần nữa về sự suy thoái của ngành hàng hải kể từ sau vụ phá sản của United States Lines vào năm 1986.
Ngành hàng hải hay những ngành công nghiệp mang tính chu kỳ khác như khai khoáng thường mắc những sai lầm tương tự. Họ đầu tư mạnh khi thị trường gần lên mức đỉnh của chu kỳ nhằm cố gắng đánh bại đối thủ cạnh tranh.
Sau đó, sự suy thoái của toàn ngành đến trước đà cung ngày một tăng khiến giá cả đi xuống và hậu quả là những kẻ yếu hơn phải rời bỏ cuộc chơi. Trong trường hợp trên, Hanjin rõ ràng là kẻ yếu hơn.
Ngành vận tải biển chưa bao giờ trải qua những cuộc khủng hoảng nặng nề và kéo dài quá mức như hiện nay. Kể từ năm 1956, ngành công nghiệp này chưa bao giờ ngừng tăng trưởng cho đến cuộc khủng hoảng hiện nay.
Công nghệ kỹ thuật phát triển, thương mại bùng nổ, kinh tế tăng trưởng... nhiều yếu tố đã thúc đẩy đà phát triển của ngành vận tải biển trong nhiều năm. Cũng có những lúc ngành vận tải biển gặp khó khăn, nhưng chỉ kéo dài trong khoảng 1-2 năm và chính phủ cũng như các chủ nợ luôn đứng sau hỗ trợ ngành này. Hệ quả là những công ty hoạt động yếu kém vẫn có thể tồn tại cho đến ngày nay.
Có lẽ, chính những khối tài sản khổng lồ là các con tàu vận tải cũng như "bộ mặt" của một quốc gia khiến chính phủ và các ngân hàng sẵn sàng cho các doanh nghiệp này vay tiền mà không nhìn nhận được thực tế của thị trường.
Ngoài yếu tố suy giảm thương mại giao dịch hàng hóa, việc toàn cầu hóa bị chững lại trước làn sóng bài Trung Quốc, khủng bố, Brexit hay những căng thẳng chính trị giữa Nga và Mỹ, tình hình biến động tại Biển Đông... khiến hoạt động giao thương cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Thậm chí, việc các ứng cử viên Tổng thống Mỹ như Hillary Clinton và Donald Trump đều phản đối các hiệp định thương mại tự do gây bất lợi cho một số tầng lớp ở nước này cũng gây nên những lo ngại cho ngành vận tải biển.
Tuy nhiên, có lẽ yếu tố khiến ngành vận tải biển bị ảnh hưởng nhiều nhất là sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty về kích cỡ tàu. Trong 20 năm qua, kích cỡ bình quân của các tàu chở hàng đã tăng 90% và tổng khối lượng chuyên chở khả dụng của tất cả các đội tàu trên thế giới năm 2015 đã cao gấp 4 lần so với năm 2000.
Nghiên cứu của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD cho thấy ngành đóng tàu đã bùng nổ mạnh mẽ kể từ năm 2007 nhưng điều này hoàn toàn không dựa trên tình hình thực tế của nhu cầu vận chuyển mà chỉ đơn thuần nhờ vào các đơn hàng của công ty vận tải.
Ví dụ như chiếc tàu siêu lớn Triple E của hãng vận tải biển lớn nhất thế giới Maersk cho ra mắt vào năm 2013. Chiếc tàu này có gia 190 triệu USD và có thể mang theo 18.000 container hàng hóa cỡ 20ft. Tuy nhiên, hãng Maersk còn có tham vọng đóng những chiếc tàu chở hàng to hơn mà không tính đến năng suất và hiệu quả thực sự của những con tàu này.
Chi phí mua lớn, giá cả bảo trì lớn, tốn tiền nhiên liệu, neo đậu, dỡ hàng, bảo hiểm....hàng loạt những vấn đề phát sinh nhưng các công ty vận tải duy trì quan điểm rằng họ sẽ thu hồi lại được vốn.
Bên cạnh việc tiếp tục đóng những con tàu khổng lồ, số lượng các tàu vận tải biển đi vào hoạt động cũng ngày một nhiều hơn. Thông thường, các tàu chở hàng có thời gian biểu hoạt động rõ ràng và mỗi đợt nhận hàng cách nhau khoảng 1 tuần. Tuy nhiên, hãng Maersk bất ngờ ra mắt dịch vụ nhận đơn hàng hàng ngày (Daily Maersk) cho các chuyến đi từ Trung Quốc đến Bắc Âu vào năm 2011 nhờ ưu thế có đội tàu đông đảo.
Trớ trêu thay, Maersk đã phải giảm hoạt động của dịch vụ này vào năm 2015 do nhu cầu không cao.
Sau cuộc khủng hoảng năm 2008, các hãng vận tải biển có một vài năm kinh doanh có lợi nhuận. Hệ quả là họ tăng cường vay nợ để mua thêm tàu, khiến lượng cung ngày một thừa. Đến hiện tại, khi thương mại giảm sút và nhiếu yếu tố khiến cầu vận tải biển đi xuống, nguồn cung trong ngành đã vượt 30% so với thức tế.
Theo lý thuyết, hãng Maersk và những ông lớn khác trong ngành vận tải biển như Mediterranean Shipping hay CMA CGM sẽ được hưởng lợi từ vụ Hanjin phá sản. Nếu những công ty có nguồn lực yếu kém hơn rời cuộc chơi, nguồn cung trên thị trường sẽ giảm và khiến các ông lớn còn lại chiếm thêm thị phần.
Nhiều chuyên gia cho rằng, chính việc Maersk đóng những con tàu khổng lồ khiến tình trạng thừa cung tăng trong ngành vận tải biển đã đẩy những công ty yếu hơn như Hanjin vào tình trạng phá sản.
Dẫu vậy, có lẽ nước đi này của Maersk là một bước cờ sai khi công ty đang làm ăn bết bát từ đầu năm đến nay. Thậm chí tổng công ty mẹ, hãng AP Moller Maersk đã phải cách chức Tổng giám đốc của Maersk Line vào tháng 6/2016.
Ông Soren Skou, CEO mới của Maersk Line đang lên kế hoạch tái cấu trúc lại doanh nghiệp.
Một số chuyên gia nhận định hài hước rằng những con quái thú khổng lồ trên biển mà Maersk tạo ra như Triple E hoạt động "quá tốt", chúng không chỉ nghiền nát những đối thủ yếu hơn như Hanjin mà còn sắp đánh chìm cả chính Maersk Line.
Niềm tự hào Hàn Quốc sụp đổ
Hàn Quốc là 1 trong 3 quốc gia có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển nhất thế giới và là một trong những niềm tự hào của nước này. Tuy nhiên, sự suy giảm nhu cầu đang khiến mảng công nghiệp này điêu đứng.
Những hãng đóng tàu lớn như Daewoo Shipbuilding & Marine Engineering, Huyndai Heavy Industries, Samsung Heavy Industries đã cai trị ngành đóng tàu Hàn Quốc trong nhiều thập niên, nhưng giờ đây những ông lớn này đang phải lao đao vì suy thoái, nợ nần và lượng đơn đặt hàng ngày một ít.
Ngành đóng tàu cũng như vận tải biển đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế Hàn Quốc và đây là lý do các ngân hàng quốc doanh như KDB bơm hàng tỷ USD tín dụng cho các ông lớn trong ngành. Tuy nhiên, động thái này chỉ khiến nợ của các công ty ngày càng phình to hơn.
Hiện ngành đóng tàu Hàn Quốc đang gặp phải cạnh tranh ác liệt từ đối thủ Trung Quốc với những con tàu giá rẻ. Cả 3 ông lớn trong ngành này đã lỗ ròng 4,9 tỷ USD năm 2015 sau khi đã lỗ 2,5 tỷ USD năm 2014.
Trong khi các hãng đóng tàu Trung Quốc đã chiếm gần 50% số đơn đặt hàng mới thì Hàn Quốc chỉ chiếm 7,4% còn Nhật bản là 5,7%.
Tháng 6/2016, chính quyền Seoul đã phải bơm 9,5 tỷ USD dưới dạng vay ưu đãi cho 3 tập đoàn lớn, trong khi các công ty này cũng phải bán 7,3 tỷ USD tài sản để có tiền kinh doanh.
Chính phủ Hàn Quốc cũng dự báo ngành đóng tàu nước này sẽ giảm 30% công suất và 30% lực lượng lao động vào năm 2018.
Thay đổi giá cổ phiếu của 3 ông lớn ngành đóng tàu Hàn Quốc và chỉ số Kospi trong 5 năm qua (%)
Lượng đặt hàng đống tàu mới đang giảm trong 2 năm qua
Giá đóng tàu chở hàng đang giảm mạnh kể từ sau khủng hoảng 2008 (triệu USD)
Theo CafeBiz
Vi khuẩn 'ác mộng' xuất hiện tại Mỹ Các nhà khoa học đang rất lo ngại sau khi phát hiện tại Mỹ một chủng vi khuẩn có khả năng "cầm cự" được với nhiều dòng kháng sinh, kể cả colistine. Loại siêu vi khuẩn mang gien MCR-1 được phân tích tại Trung tâm y tế lục quân Walter Reed. NBC NEWS Khi nữ bệnh nhân 49 tuổi, cư dân bang Pennsylvania...