Biết ơn, tự hào về mái trường xưa, về các thầy cô và bè bạn
Sáng 6/10/2015, Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQGHN kỷ niệm 70 năm truyền thống, 20 năm thành lập trường. Tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã có bài phát biểu quan trọng và thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất lần thứ hai cho Trường. Lãnh đạo nhà trường và đại diện các thế hệ cán bộ giảng dạy và sinh viên của Trường đã có những phát biểu chia sẻ.
Dưới đây là phát biểu của cựu sinh viên Nguyễn Thế Kỷ – Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, đại diện cho các thế hệ sinh viên Trường tại buổi lễ:
Hôm nay, tôi rất xúc động, vinh dự và may mắn được trở về mái trường thân yêu mà tôi và nhiều cựu sinh viên khác không muốn gọi là “trường xưa” – Trường Đại học Văn khoa 70 năm trước; Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mà chúng tôi từng học tập, nghiên cứu và 20 năm gần đây, là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nói gì, kể gì lúc này cũng khó có thể tả hết tình cảm yêu thương, kính trọng, tự hào của lớp lớp thế hệ sinh viên chúng tôi đối với Trường, với các thầy các cô, với truyền thống vẻ vang 70 năm của Trường.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho trường ĐH KHXH&NV-ĐHQG HN.
Năm 1977, tôi và các đồng môn của mình bước chân vào ngưỡng cửa Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được nhận vào các khoa khác nhau: Ngữ Văn, Lịch Sử, Địa Lý, Triết, Kinh Tế – Chính Trị, Luật.. và các khoa của khối khoa học tự nhiên. Sinh viên vào trường lúc đó chủ yếu từ 2 nguồn: (1) Học sinh phổ thông độ tuổi 17, 18; (2) Bộ đội xuất ngũ và đang tại ngũ, vừa mới ra khỏi cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ đầy hy sinh, gian khổ. Nhìn trong lớp học, rất ít áo trắng (vì áo trắng lúc đó là của hiếm, là “độc quyền” của một số bạn sinh viên người Hà Nội và vài ba đô thị khác), mà chủ yếu là màu sẫm, màu nâu và màu quân phục. Nhưng sự vui sướng, tự hào của chúng tôi thì lớn lao và vẹn nguyên đến bây giờ.
Tên của Trường lúc đó đã rất nổi tiếng; tên tuổi của nhiều thầy, cô – thế hệ nhà giáo Vàng, là niềm ngưỡng mộ, không chỉ của sinh viên mà cả xã hội. Không khí, chất lượng dạy và học lúc đó thật tuyệt vời. Duy chỉ điều này thì không ai hài lòng, nhưng nhớ mãi: thiếu thốn nhiều thứ – sách vở, tài liệu, giấy bút, dụng cụ học tập, đồ dùng cá nhân..
“… Cái thời lọ mực sẻ ba
Đĩa rau muống luộc nửa già, nửa ôi
Cơm mỳ hai bát chơi vơi
Lâm râm cái đói suốt thời sinh viên…” (Thơ NTK)
Cái thời đó, vào thư viện của Trường, của Khoa, đôi khi, trong đầu nảy sinh một vài ý nghĩ không lấy gì lành mạnh cho lắm: giá như mình sở hữu cuốn sách kia, giá như mình có riêng cuốn sách nọ. Và trong thực tế, một số cuốn sách trong thư viện theo cách nào đó đã “đội nón” ra đi.
Thời đó, cánh sinh viên chúng tôi học ở Trường, chỉ mơ ước được về quê thăm cha mẹ, người thân mỗi năm 2 lần: hè và tết; nhưng không ít người chỉ có thể về nhà một lần vào dịp hè vì không có tiền mua vé tàu xe. Quê tôi cách Hà Nội gần 300km về phía nam, đi tàu hỏa thời đó, tàu “bò” mất 2 ngày, xuống tàu, đi bộ 20km mới về đến nhà. Mà đi tàu thì chủ yếu là trốn vé:
Video đang HOT
“… Nhớ bè bạn bao lần trốn vé
Đêm nóc tàu nằm ngắm sao sa
Bụng lép kẹp đọc thơ Nga, Pháp
Và mơ em Hà Nội ngọc ngà…” (Thơ NTK)
Con tàu của cuộc đời, của Trường đã chở chúng tôi đi qua một thời gian khó, vươn về tương lai như thế đó: luôn lạc quan, yêu đời; luôn khát khao chiếm lĩnh tri thức, văn hóa của dân tộc và nhân loại; luôn say mê giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học; “thầy ra thầy”, “trò ra trò”… Rất nhiều thầy, cô giáo trở thành tượng đài trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học của đất nước. Rất nhiều sinh viên có những cống hiến đáng quý cho đất nước, thành danh ở nhiều lĩnh vực công tác, đời sống xã hội. Đặc biệt, nhiều sinh viên các khoa, các khóa thập niên năm mươi, sáu mươi, bảy mươi đã xếp bút nghiên ra trận, nhiều người anh dũng hy sinh trên các chiến trường như Lê Anh Xuân, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Hồng…; nhiều người trở thành nhà khoa học hàng đầu, thành nhà giáo, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà lãnh đạo, quản lý… Chỉ tính riêng khối Khoa học Xã hội, có nhiều sinh viên của Trường sau này trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước như đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư của Đảng, từng là Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Lê Xuân Tùng, từ là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội; đồng chí Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội và nhiều đồng chí là lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành, địa phương, nhà trường, học viện.
Lãnh đạo ĐH KHXH&NV tri ân những cán bộ, nhà giáo lão thành đã có nhiều cống hiến đóng góp cho nhà trường.
Bản thân tôi, phát huy truyền thống của nhà trường; tiếp thu kiến thức, tri thức, phương pháp học tập, nghiên cứu mà các thầy cô đã truyền dạy, sau khi tốt nghiệp, tôi trở về quê và làm phóng viên Đài Phát thanh – Truyền hình Nghệ Tĩnh, sau đó là Đài Nghệ An, rồi làm Phó Giám đốc Đài, làm Tổng biên tập Báo Nghệ An, làm Bí thư Huyện ủy Nam Đàn. Năm 2008, vẫn công tác ở Nghệ An, tôi may mắn được trở lại Hà Nội, trở lại Trường lần thứ hai để làm nghiên cứu sinh ngành Ngữ Văn – lớp Nghiên cứu sinh do Viện Ngôn ngữ học và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp tổ chức. Đó là một cơ may và vinh dự mà không phải ai ở xa Trường cũng có được. Sau khi bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ Ngữ Văn, tôi được điều động ra Hà Nội làm Vụ trưởng Vụ Báo chí – Xuất bản, năm 2010 được bổ nhiệm làm Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương, năm 2013 được phong học hàm Phó Giáo sư. Cùng với công việc được giao là chỉ đạo, quản lý lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, tôi vẫn đều đặn viết báo, làm thơ, tham gia đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ cho khoa Báo chí và Truyền thông của Trường và một số đơn vị khác. Mấy năm gần đây, còn viết thêm cả kịch bản sân khấu. Nhìn lại, suy ngẫm về con đường mình đã đi qua, ngoài các yếu tố từ quê hương, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, tôi thấy mình có được một tố chất khá rõ, giúp mình, nâng bước mình đi lên – đó là tố chất, là hành trang của một sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hôm nay. Có lẽ, nhiều anh chị, các bạn, các em lớp sau cũng có suy nghĩ tương tự.
Bài phát biểu của tôi chủ yếu thể hiện cảm nghĩ, cảm xúc cá nhân. Nhưng cá nhân đó luôn luôn nhớ về Trường, gắn bó mãi mãi với Trường, mãi tự hào, biết ơn Trường, nhớ ơn các thầy cô; nhớ và yêu quý các anh chị, các bạn sinh viên của Trường; yêu quý và tin tưởng ở sức vươn mạnh hơn, cao hơn của các em sinh viên hôm nay, mai sau của Trường ta.
Theo Dantri
Nhớ ngày người Sài Gòn tử thủ trên những cây cầu xưa
Đêm 22/9/1945, quân Pháp dùng vũ lực chiếm các cứ điểm của chính quyền cách mạng non trẻ tại Sài Gòn. Mới hưởng không khí độc lập - tự do được 28 ngày, nhân dân Sài Gòn đã phải đứng lên cầm vũ khí chống trả lại cuộc xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp.
Đài tưởng niệm chiến công mặt trận cầu Thị Nghè của quân dân Sài Gòn trong ngày Nam Bộ kháng chiến vừa được xây mới vào năm 2014 (ảnh: Phạm Nguyễn)
"Mùa Thu rồi ngày hăm ba..."
Sách "Lịch sử Nam Bộ kháng chiến" do các sử gia hàng đầu và những cán bộ lão thành từng trải qua những ngày Nam Bộ kháng chiến biên soạn nhận định: "Ngày 23/9 đi vào lịch sử như ngày "Nam Bộ kháng chiến", mở đầu cho cuộc chiến đấu "gian lao mà anh dũng" trong suốt 30 năm của Nam Bộ "đi trước về sau".
Ngày 6/9/1945, những lính Anh đầu tiên trong Phái bộ quân sự Anh đến Sài Gòn với nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Nhưng người Anh đến lại dẫn theo quân Pháp và hỗ trợ cho lính Pháp với mưu đồ tái chiếm Nam bộ. Dưới sự dung túng và hỗ trợ của người Anh, quân Pháp bắt đầu gây hấn và đòi chiếm lại các cứ điểm mà chính quyền cách mạng đã giành được trong cuộc cách mạng tháng 8.
Chiều 22/9/1945, quân Anh mời ông Trần Văn Giàu và Phạm Ngọc Thạch, 2 vị lãnh đạo của chính quyền cách mạng Nam Bộ, sang Dinh Toàn quyền ăn tối và đàm phán. Nhận thấy ý đồ giúp quân Pháp chiếm lại Sài Gòn của người Anh, việc mời sang đàm phán chỉ là cái bẫy để bắt sống 2 lãnh đạo của chính quyền cách mạng, 2 ông giả vờ nhận lời nhưng không sang, đồng thời chỉ đạo các cánh quân cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu.
Đúng như 2 ông dự đoán, đêm 22/9/1945, quân Pháp đã kéo đến đánh chiếm trụ sở Ủy ban Nhân dân Nam Bộ kháng chiến, trụ sở Quốc gia tự vệ, bưu điện, nhà đèn, đài phát thanh... Nhờ cảnh giác từ trước, các đơn vị vũ trang của chính quyền cách mạng đã anh dũng đánh trả quân Pháp xâm lược suốt từ đêm 22/9/1945 đến rạng sáng 23/9/1945.
Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến, nhân dân Sài Gòn đồng lòng đứng lên chống Pháp (ảnh tư liệu)
Sáng sớm 23/9/1945, giữa lúc tiếng súng còn đang vang vọng khắp các cứ điểm trọng yếu ở Sài Gòn, Xứ ủy, Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ triệu tập cuộc họp liên tịch bàn phương cách ứng phó. Qua tranh luận, hội nghị đã quyết định điện báo xin chỉ thị của Trung ương, đồng thời phát động kháng chiến ngay lập tức.
Hội nghị đã thông qua "Lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ" do ông Trần Văn Giàu soạn ngay trong đêm 22/9/1945. Sách "Lịch sử Nam Bộ kháng chiến" ghi lại: "Sau khi nhắc lại lời thề "Độc lập hay là chết!" trong Lễ Độc lập tại Sài Gòn ngày 2/9/1945, Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ xác định: "Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tay sai của chúng" và kết thúc lời kêu gọi bằng câu: "Cuộc kháng chiến bắt đầu!".
Sau hội nghị, anh em thợ in khẩn trương in hàng vạn bản "Lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ". Ngay trong ngày 23/9/1945, lời kêu gọi đã được phát đi, dán trên tường nhà, thân cây... khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân Bình, Gia Định. Một lượng lớn lời kêu gọi được chuyển gấp về các tỉnh phía Nam.
Lời kêu gọi ấy nhanh chóng được quân dân Sài Gòn - Gia Định hưởng ứng mãnh liệt. Xí nghiệp, cửa hàng đều đóng cửa, chợ búa không họp, ụ chiến đấu mọc lên khắp phố phường, các đội tự vệ cùng nhân dân canh gác các ngả đường...
Ngày ấy đã được nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn khắc họa rõ nét trong bài ca "Nam Bộ kháng chiến" với lời nhạc hào hùng cháy rực: "Mùa Thu rồi ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Rền khắp trời lời hoan hô, dân quân Nam nhịp chân tiến lên trận tiền... Một lòng nguyện với tổ tiên: thề quyết chống quân xâm lăng. Ta đem thân ta liều cho nước...".
Tử thủ trên những cây cầu xưa
Khu vực TPHCM ngày ấy chỉ có 2 khu đô thị tập trung là Sài Gòn và Chợ Lớn, ngăn cách với các vùng lân cận (Gia Định, Tân Bình) và các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ bởi sông Sài Gòn và hệ thống kênh rạch chằng chịt. Vùng đô thị trung tâm chỉ có thể kết nối với các địa phương xung quanh bởi những cây cầu trọng yếu được xây dựng từ ngày đô thị này thành hình như: cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Nhị Thiên Đường...
Quân ta chiếm đóng các cây cầu trọng yếu để vây quân thù trong nội thành (bản đồ Sài Gòn thời Pháp thuộc)
So sánh thế lực giữa địch và ta, ngay từ trước ngày Nam Bộ kháng chiến, Ủy ban Kháng chiến đã quyết định thực hiện kế sách "trong đánh ngoài vây". Khu vực đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn là mặt trận nội thành, được chia thành 16 tiểu khu với mục tiêu chiến đấu tiêu hao sinh lực địch. Các đơn vị vũ trang của mặt trận ngoại thành sẽ chiếm cứ các cây cầu để ngăn chặn địch mở rộng ra ngoại thành và tiến về các tỉnh lân cận.
Đến nay, khi đi ngang qua cầu Thị Nghè, người ta vẫn dễ dàng nhìn thấy một tấm bia lớn được dựng dưới chân cầu vươn lên cao cùng cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Trên tấm bia ấy ghi lại chiến công bi hùng của quân dân Sài Gòn trên mặt trận cầu Thị Nghè ngay trong ngày đầu Nam Bộ kháng chiến: "Tại cầu này, ngay từ sáng sớm 23/9/1945, quân và dân Thị Nghè cùng nhân dân thành phố vũ trang bằng vũ khí thô sơ, đã lập "mặt trận cầu Thị Nghè" chặn đứng quân Pháp gần hàng tháng trời, không cho nống ra ngoài thành phố...".
Hình vẽ tái hiện trận đánh quân pháp ở cầu Thị Nghè (ảnh tư liệu)
Ngày ấy, trận chiến diễn ra hết sức quyết liệt. Với mục tiêu bắt buộc là phải mở đường ra miền Đông, quân Pháp dồn lực lượng và khí tài mạnh mẽ vào đây để phá toang cứ điểm Thị Nghè. Dù vũ khí thô sơ phải chống chọi với súng đạn tối tân, tàu chiến và thiết giáp của kẻ thù, quân dân Thị Nghè vẫn kiên cường bám trụ trận địa từ ngày 23/9/1945 cho đến ngày 18/10/1945.
Sa bàn tái hiện trận đánh cầu Thị Nghè cho thấy quân dân Thị Nghè dùng thân cây, bàn ghế, giường tủ... chắn ngang cầu để làm lô cốt. Những chàng trai 17, 18 tuổi chỉ có vài khẩu súng cướp được của giặc Pháp trong ngày cách mạng tháng tám, phần lớn vũ khí là mã tấu, dao găm nhưng đã anh dũng chống chọi gần 1 tháng trời trước sức tấn công mạnh mẽ của quân thù. Họ đã tiêu diệt hàng trăm quân địch, nhưng máu dân Thị Nghè đổ xuống cây cầy này cũng không ít.
Tranh vẽ trận đánh Pháp tại cầu Bông (ảnh tư liệu)
Với tầm vông và giáo mác, bất kể thanh niên hay phụ lão Sài Gòn đều quyết tâm chiến đấu giữ lấy thành quả của cách mạng tháng 8 (ảnh tư liệu)
Cuộc chiến thảm liệt không cân sức ấy diễn ra trên khắp các cứ điểm trọng yếu đóng ở những cây cầu xưa bao quanh thành phố. Quân dân Sài Gòn chỉ có thể duy trì chiến đấu bằng ý chí và lời thề "Độc lập hay là chết!". Sức mạnh ấy cộng với địa thế của thành phố đã giúp quân dân Sài Gòn tử thủ thành công tại các mặt trận này, bao vây quân Pháp gần cả tháng trời trong nội thành Sài Gòn, tranh thủ thời gian cho cả miền Nam chuẩn bị cuộc kháng chiến trường kỳ.
Đến nay, cầu Thị Nghè năm 1945 đã không còn sau nhiều lần được sửa chữa, xây mới vì hư hại nghiêm trọng trong chiến tranh. Cầu Bông, cầu Kiệu cũng đã được xây mới vì xuống cấp trầm trọng. Cầu Nhị Thiên Đường cũng đang được lên kế hoạch phá hủy để xây mới vì quá cũ kỹ...
Cầu dù có xây mới, hình hài có thay đổi nhưng những cái tên như mặt trận cầu Thị Nghè, mặt trận Cầu Bông... mãi mãi sống trong lòng người Sài Gòn. Bởi ở đó, máu đỏ của tổ tiên đã đổ đầy mặt cầu để bảo vệ thành phố tươi đẹp hôm nay.
Tùng Nguyên
Theo Dantri
Lộ trình cụ thể cấm phương tiện trên gần 40 tuyến phố Hà Nội Ngày 2/9, tại khu vực Quảng trường Ba Đình - Hà Nội sẽ diễn ra Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Quốc khánh. Buổi tổng duyệt diễn ra vào tối nay 29/8. Theo đó, Công an TP Hà Nội ra thông báo: từ 16 giờ đến 24 giờ ngày 29/8 và từ 21 giờ ngày 1/9 đến 12...