Biển Đông: Quốc tế phải có tiếng nói đủ mạnh…
Chuyên gia Biển Đông cho rằng, Trung Quốc chỉ đòi đối thoại song phương chứ không phải là đa phương với các quốc gia có cùng vấn đề.
Hội thảo quốc tế về Biển Đông năm 2014 được khai mạc sáng 25/7 tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng (quận 7, TP.HCM).
Hội thảo có 22 tham luận được trình bày bởi nhiều học giả trong và ngoài nước, trong đó có các chuyên gia nổi tiếng trên thế giới về Biển Đông như Giáo sư Carl Thayer (Học viện quốc phòng Úc), Giáo sư Ramses Amer (Trung tâm nghiên cứu Đông Á, Đại học Stockholm, Thụy Điển), Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason, Mỹ)…
Hội thảo quốc tế về Biển Đông diễn ra trong 2 ngày 25-26/7
Các chuyên gia đã đi sâu phân tích vào vấn đề trọng tâm, là chính sách quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp thông qua việc chấp hành luật lệ quốc tế; phương thức quản lý xung đột bằng con đường ngoại giao, ôn hòa để giữ gìn khu vực biển Đông hòa bình, hợp tác và thịnh vượng.
Trong phần trình bày của mình, cố vấn an ninh của Thủ tướng Ấn Độ, ông Pradhan, đưa ra một tham luận “rút ra từ 40 năm thực tiễn”.
Ông Pradhan cho rằng tình hình Biển Đông ngày càng căng thẳng và những xung đột trên Biển Đông đang làm lu mờ những thành tựu của các nước trong khu vực đạt được trước đó.
“Chúng ta biết trong thời gian qua cộng đồng quốc tế đã nỗ lực thông qua những hiệp ước về Biển Đông đã được ký kết. Tuy nhiên, những nỗ lực quốc tế đó không được Trung Quốc tôn trọng. Trung Quốc đã chiếm các bãi, đảo của các nước và tuyên bố chủ quyền ở những nơi Trung Quốc không có chủ quyền” – ông Pradhan nói.
Ông Pradhan kiến nghị cộng đồng quốc tế phải có tiếng nói mạnh mẽ hơn và các nước đang tranh chấp dừng các động thái của mình lại.
“Cộng đồng quốc tế phải có tiếng nói đủ mạnh và hỗ trợ các quốc gia nhỏ hơn, yếu hơn về an ninh trong khu vực” – ông Pradhan nói thêm.
Đề cập đến vấn đề Biển Đông và những áp đặt đơn phương về yêu sách lãnh thổ đã gây ra căng thẳng, đe dọa hòa bình khu vực, an ninh và tự do hàng hải cũng như ảnh hưởng đến đời sống của hàng ngàn ngư dân Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason (Mỹ) cho rằng hội thảo lần này cần tập trung tìm ra các giải pháp tốt nhất tạo điều kiện cho ngư dân tiếp tục đánh bắt thủy sản trên những ngư trường truyền thống trên Biển Đông.
Trong khi đó, GS Ramses Amer nói vấn đề lớn nhất ông nhìn thấy là Trung Quốc chỉ đòi đối thoại song phương chứ không phải là đa phương với các quốc gia có cùng vấn đề. Do đó, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn đối thoại với các quốc gia trong khu vực, quốc tế chứ không chỉ đối thoại song phương với Trung Quốc.
Ngày 26/7, tại TP.HCM cũng diễn ra Hội thảo quốc tế “Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam”.
Video đang HOT
Hội thảo có sự tham dự của 30 học giả hàng đầu về luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế nói riêng, đến từ các viện nghiên cứu, các trường đại học lớn của Mỹ, Nga, Ý, Thụy Sĩ, Hungari, Bungari, Ba Lan, Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Nhật Bản, Singapore…
Theo chương trình làm việc, sẽ có 14 tham luận được trình bày. Trong đó, các học giả sẽ đánh giá, bình luận, phân tích về hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981; vai trò của ASEAN trong giải quyết tranh chấp Biển Đông; cơ chế giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý quốc tế và Trọng tài quốc tế; các biện pháp giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc;
Các biện pháp giải quyết tranh chấp theo quy định của Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982; thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài quốc tế về luật biển; kinh nghiệm của các quốc gia đã giải quyết tranh chấp lãnh thổ, biên giới tại Tòa án Công lý quốc tế và Trọng tài quốc tế về việc chuẩn bị hồ sơ pháp lý để khởi kiện, tranh tụng tại các cơ quan tài phán này.
Theo Đất Việt
Học giả Mỹ: Bài học vụ giàn khoan 981, quyết tâm có thể thắng sức mạnh
Bên có quyết tâm cao hơn vẫn có thể giành chiến thắng ngay cả khi là bên yếu hơn.
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam quyết tâm bám biển đến cùng và kiên trì các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế đấu tranh với phía Trung Quốc.
Tiến sĩ Alexander L. Vuving, Phó giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á - Thái Bình Dương tại Honolulu ngày 27/7 có bài bình luận việc liệu có khả năng Trung Quốc đã lẩn tránh vấn đề Biển Đông qua vụ dịch chuyển giàn khoan 981 hay không bởi trả lời được câu hỏi này sẽ không chỉ làm sáng tỏ quyết tâm của Trung Quốc mà còn khám phá những bài học có giá trị về việc làm thế nào để đối phó với sự hung hăng của Bắc Kinh.
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam tổng cộng 75 ngày, mặc dù dự kiến đến 15/8 mới rút nhưng từ 15/7 Trung Quốc đã thông báo giàn khoan 981 "hoàn thành nhiệm vụ" và được di dời về gần đảo Hải Nam. Việc kéo giàn khoan 981 về cũng bất ngờ như khi nó được triển khai ở vùng biển Việt Nam, gây ra cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong quan hệ song phương từ năm 1988.
Như với các cuộc khủng hoảng khác cùng loại hình này, bế tắc giàn khoan 981 cũng là 1 trận chiến của ý chí. Nếu sức mạnh là một chìa khóa để chiến thắng trong cuộc xung đột quốc tế thì quyết tâm cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Bên có quyết tâm cao hơn vẫn có thể giành chiến thắng ngay cả khi là bên yếu hơn. Với vấn đề quyền chủ quyền, quyền tài phán (của Việt Nam) bị đe dọa, 2 quốc gia đã thử nghiệm quyết tâm của nhau xem ai phải lảng tránh đầu tiên.
Trong bối cảnh đó, việc rút giàn khoan của Trung Quốc trước thời hạn công bố 1 tháng dường như đã không đạt được mục đích làm rõ quyết tâm của mình, phải chăng Trung Quốc đã lảng tránh trước?
Cú đánh của thiên nhiên
Lý do đơn giản nhất và cái cớ đầu tiên, hấp dẫn nhất để Trung Quốc dịch chuyển giàn khoan 981 là thời tiết xấu. Ngày trước khi rút giàn khoan 981 đã có cảnh báo về một cơn bão mạnh, bão Rammasun dự kiến sẽ đổ bộ vào đảo Hải Nam ngày 18/7. Mặc dù vị trí hạ đặt giàn khoan 981 ở về phía Tây Nam, không nằm trên con đường Rammasun trực tiếp đi qua, nhưng không ai dám đảm bảo chắc chắn rằng cơn bão mạnh này sẽ không gây thiệt hại cho giàn khoan 981 và cụm tàu hộ tống.
Mặc dù giàn khoan 981 được cho là có thể chịu được những cơn bão mạnh, nhưng sẽ quá mạo hiểm để giữ nó và cụm tàu hộ tống ngoài biển khơi trong điều kiện thời tiết quá xấu.
Lúc này Trung Quốc phải đối mặt với 2 lựa chọn. Một là di chuyển giàn khoan xa hơn xuống phía Nam, tức là sẽ xâm phạm sâu hơn nữa vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam cùng với hạm đội tàu bảo vệ đòi hỏi hậu cần lớn hơn, trong khi khủng hoảng với Việt Nam sẽ leo thang lên một nấc mới.
Lựa chọn thư 2 là dịch chuyển giàn khoan 981 về gần bờ phía Trung Quốc, ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Điều này cho phép giàn khoan 981 neo đậu tại vùng nước nông và không đòi hỏi phải có một hạm đội tàu hộ tống lớn như trước. Trung Quốc đã lựa chọn cách thứ 2 ít rủi ro hơn với thông báo giàn khoan 981 đã hoàn thành công việc của mình.
Thông báo này cũng là lựa chọn tốt hơn cho Trung Quốc, tuyên bố rút giàn khoan 981 tạm thời sẽ bỏ ngỏ khả năng "quay trở lại lập tức" sau khi kết thúc cơn bão. Nhưng sự trở lại lần này sẽ bị thách thức bởi một đội tàu thuyền lớn của Việt Nam và Trung Quốc sẽ có nguy cơ mất mặt khi không thể hạ đặt giàn khoan tại vị trí trước đó.
Tuy nhiên những giải thích tập trung vào "thời tiết xấu" lại trở nên khó hiểu khi cùng trong ngày 15/7 khi tuyên bố rút giàn khoan 981, Trung Quốc bất ngờ thả 13 ngư dân Việt Nam bị bắt giữ trong thời gian xảy ra khủng hoảng giàn khoan khiến giới quan sát phải đặt câu hỏi, phải chăng đây là một món hời và cuộc khủng hoảng đã đạt đến giới hạn của nó.
Tiến sĩ Alexander L Vuing (trái). Ảnh: Pháp luật Tp Hồ Chí Minh.
Trung Quốc đã đặt điều kiện ngầm với Việt Nam?
Alexander L. Vuving cho biết, ông không rõ liệu có hay không 1 thỏa thuận ngầm giữa Trung Quốc với Việt Nam, nhưng những gì đã diễn ra khiến giới quan sát cho rằng trong lúc tàu Trung Quốc và Việt Nam chơi trò mèo vờn chuột gần giàn khoan 981, Việt Nam và Trung Quốc đã có thể có hoạt động đối thoại, trong đó Bắc Kinh đặt ra 4 điều kiện tiên quyết cho các cuộc đàm phán.
Đầu tiên, Trung Quốc đặt điều kiện phía Việt Nam "phải chấm dứt quấy rối tàu và giàn khoan Trung Quốc"; Thứ 2, quần đảo Hoàng Sa không có tranh chấp chủ quyền; Thứ 3, Việt Nam không được khởi kiện Trung Quốc, theo đuổi các thủ tục pháp lý chống lại tuyên bố và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông; Và cuối cùng, Việt Nam không được kêu gọi bên thứ 3 đặc biệt là Mỹ và phương Tây can thiệp vào vụ này.
2 điều kiện đầu tiên về chính trị là không thể nhượng bộ đối với Việt Nam. Nhưng Việt Nam có thể xem xét 2 yêu cầu sau, mặc dù trước đó đã có một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ trên truyền thông về các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của phía Trung Quốc và nhiều lời kêu gọi mạnh mẽ kiện Trung Quốc ra tòa. Tuy nhiên đến thời điểm này Việt Nam chưa có động thái nào cho thấy sẽ khởi kiện Trung Quốc.
Mặt khác, Việt Nam cũng đã tạm hoãn chuyến thăm Hoa Kỳ của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mà ban đầu được dự kiến diễn ra vào tháng 6 sau cuộc điện đàm của ông Phạm Bình Minh với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm 21/5. Dịch chuyển giàn khoan 981 và thả 13 ngư dân có thể xem như một hành động đối ứng của sự xuống thang căng thẳng. Hành vi xuống thang của Trung Quốc cũng đòi hỏi Việt Nam phải có động thái tương ứng.
Các hành động pháp lý chống lại Trung Quốc sẽ là một cái gì đó mà Việt Nam sẽ phải trì hoãn, thậm chí ngay cả khi không có áp lực từ Trung Quốc. Lo sợ bị Trung Quốc trả thù kết hợp với nguy cơ một phán quyết bất lợi và thực tế phán quyết không được thực thi khi Bắc Kinh không đồng ý đang là nhân tố chi phối tính toán của Việt Nam hiện nay.
Thực tế cả Việt Nam và Mỹ đã tăng đáng kể mức trần cho phép những phản ứng đối phó với các hành động leo thang của Trung Quốc. Nhưng hành động của Bắc Kinh dù bề ngoài giống như một món hời ngầm, nhưng bản chất thực sự của nó lại là một cái gì đó rất khác.
Chiến lược lát xúc xích
Hành vi của Trung Quốc sẽ được nhìn rõ nhất nếu quan sát dưới lăng kính chiến lược cắt lát xúc xích của Bắc Kinh. Đây là thủ đoạn Bắc Kinh dùng để thực hiện yêu sách lãnh thổ của mình và thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Hoa Đông. Điểm mấu chốt của chiến thuật này là để cân bằng tinh tế giữa sự quyết đoán và kiềm chế sao cho các hành động của Trung Quốc đủ để thay đổi thực trạng ngoài thực địa nhưng không đủ lý do chính đáng cho đối phương chống trả quyết liệt.
Bão Rammasun là lý do tốt để Trung Quốc dời giàn khoan 981 về khu vực đảo Hải Nam.
Có rất nhiều lý do để nghĩ rằng sự cân bằng tinh tế này đã đạt đến giới hạn của nó và bão Rammasun đã cho Trung Quốc một lý do tốt để xoa dịu căng thẳng mà không bị mất mặt. Việc triển khai giàn khoan 981 đã gây ra cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất ở Đông Nam Á kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Với Trung Quốc, bắt nạt các nước láng giềng nhỏ hơn mình là thủ đoạn tích cực và lâu dài khiến nhận thức của cộng đồng quốc tế về Trung Quốc đang thay đổi theo chiều hướng xấu.
Trong tháng 7, lần đầu tiên Việt Nam có hoạt động kỷ niệm cuộc chiến Vị Xuyên, Hà Giang giai đoạn 1984-1988 với những câu chuyện chiến tranh đẫm máu được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của những người lính Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ. Tất cả điều này là chưa từng có cùng với khả năng hợp tác với Hoa Kỳ đã chỉ ra 1 sự thay đổi lớn trong cách tiếp cận của Việt Nam đối với Trung Quốc.
Tại Hoa Kỳ, ngày 10/7 Thượng viện Mỹ nhất trí thông qua dự thảo nghị quyết lưỡng đảng (S.Res.412) lên án các hành động cưỡng chế của Trung Quốc và hối thúc Bắc Kinh rút giàn khoan 981 cùng các lực lượng hàng hải, quân sự có liên quan. Nghị quyết cũng đặt ra vấn đề các chính sách liên quan của Mỹ hỗ trợ đồng minh và đối tác ở châu Á - Thái Bình Dương có tác động đến tự do hàng hải. Một số nhà làm chính sách Mỹ có ảnh hưởng và các học giả bắt đầu kêu gọi một cách tiếp cận cứng rắn hơn với Trung Quốc.
Ví dụ điển hình là kêu gọi của 2 học giả Michele Flournoy và Ely Ratner trên tờ Washington Post, Mỹ phải kiểm soát được hoạt động bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Một ví dụ khác là Chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ Mike Rogers kêu gọi Washington phải phản ứng mạnh mẽ hơn trước các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, đồng thời trao quyền nhiều hơn cho các đồng minh và đối tác.
Nhìn chung xu hướng đơn phương khoan thăm dò của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam đã tạo thêm động lực cho bên thứ 3 như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ cùng với Việt Nam điều chỉnh tư thế quân sự của mình, sắp xếp chính sách đối ngoại hiệu quả hơn chống lại sự hung hăng của Trung Quốc. Nhìn thấy xu hướng này và sự thay đổi liên quan trong nhận thức, Trung Quốc chắc chắn phải cảm thấy rằng hành động tích cực của họ đã dẫn đến cái giá phải trả cho chiến lược và uy tín của chính họ.
Vì vậy, Trung Quốc cũng có nỗi sợ hãi khi đơn phương leo thang
Trong nhiều năm, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thông qua một chính sách kiềm chế vì sợ khiêu khích con rồng khổng lồ. Họ đã tạo ra một mức trần hạn chế những gì được phép trong việc đối phó với sức mạnh ngày một gia tăng của Bắc Kinh. Về phần mình, Trung Quốc đã liên tục khai thác nỗi sợ hãi này với chiến lược cắt lát xúc xích. Chiến lược này vẫn cứ tiếp tục nếu phía bên kia thiếu quyết tâm để thoát khỏi sự kiểm soát của họ trong khi cứ giữ lại nỗi sợ hãi Trung Quốc sẽ leo thang.
Sự thành công của chiến lược cắt lát xúc xích được xác định bằng thủ thuật: Nếu bạn có thể kiềm chế đối thủ của bạn 1 chiều, bạn có thể giành chiến thắng mà không cần chiến đấu. Dưới lăng kính này, rõ ràng giải pháp cho Việt Nam hay các đối thủ khác của Trung Quốc là phải cho Bắc Kinh thấy rõ, kiềm chế không thể từ 1 phía.
Trung Quốc rút giàn khoan 981 là kết quả lâu dài của quá trình cắt lát xúc xích. Nhưng nó cũng tạo cơ hội cho đối thủ của Bắc Kinh phá vỡ giới hạn "trần thủy tinh" vốn hạn chế các phản ứng của họ lâu nay. Kết quả của cuộc khủng hoảng này cho thấy Trung Quốc không khác nhiều so với các bên tranh chấp khác, Bắc Kinh cũng lo sợ khủng hoảng leo thang.
Theo Giáo Dục