Biển Đông: Lý do Trung Quốc triển khai ‘Vùng xám’
Bắc Kinh vừa muốn thay thế Washington, vừa không muốn làm thay đổi mạnh mẽ trật tự khu vực theo hớng bất lợi cho quá trình phát triển kinh tế.
Sự trỗi dậy của lực lượng cảnh sát biển (hải cảnh) cũng như dân quân biển Trung Quốc (TQ), nhất là tại các vùng biển tranh chấp, cho thấy nước này đang áp dụng một cách tiếp cận mới trong vấn đề tranh chấp hàng hải.
TQ muốn đẩy Mỹ nhưng không gây chiến
Các hành vi gây hấn ngày càng gia tăng của Bắc Kinh ở biển Đông nói chung và bên trong Chuỗi đảo thứ nhất nói riêng cho thấy TQ đang chuyển đổi tư duy chiến lược với mong muốn trở thành cường quốc biển thực thụ ở khu vực. Thay thế vị trí thống trị về mặt địa chiến lược của Mỹ là mục tiêu, song có những yếu tố hạn chế mà TQ phải chú ý.
Thứ nhất, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế khiến cho TQ không thể phá vỡ hoàn toàn cấu trúc an ninh truyền thống ở khu vực. Làm như vậy sẽ khiến cho mục tiêu quan trọng của TQ – một môi trường hòa bình để phát triển – bị đe dọa. Phát triển thịnh vượng trong một môi trường thuận lợi luôn là mục tiêu đối ngoại hàng đầu.
Thứ hai, trong ngắn hạn, bản thân TQ nhận thấy sức mạnh về mặt quân sự của mình, đặc biệt là về hải quân, chưa thể so sánh với Mỹ. Đối đầu trực diện với Mỹ về mặt hải quân sẽ là một lựa chọn chiến lược sai lầm. Hải quân TQ trong ngắn hạn sẽ vẫn dựa trên học thuyết phi đối xứng và phòng thủ chủ động. Đi kèm với đó là một chương trình hiện đại hóa tương xứng nhưng tham vọng.
Nói cách khác, TQ vừa mong muốn dần dần thay thế Mỹ như một cường quốc biển ở Tây Thái Bình Dương, vừa không muốn sự trỗi dậy của mình phá vỡ hệ thống trật tự quốc tế vốn giúp TQ trở nên thịnh vượng trong suốt 40 năm qua.
Tàu chiến và máy bay chiến đấu Trung Quốc tập trận ở biển Đông. Ảnh: REUTERS
“Vùng xám” là một giải pháp
TQ vừa muốn thay thế Mỹ, vừa không muốn làm thay đổi mạnh mẽ trật tự khu vực theo hướng bất lợi cho quá trình phát triển kinh tế. Vậy làm như thế nào để có thể kiểm soát một cách hiệu quả các khu vực biển trong Chuỗi đảo thứ nhất (biển Đông và Hoa Đông), lại vừa không gây leo thang căng thẳng tới mức xung đột có thể xảy ra? Câu trả lời khả dĩ chính là thực thi chính sách “Vùng xám”.
“Vùng xám” có nghĩa đen như là một thứ gì đó “mập mờ” và khó có thể định nghĩa. Một số tính chất của hệ thống chính sách này có thể được đề cập bao gồm: (1) sử dụng các lực lượng phi quân sự nhằm duy trì căng thẳng ở một mức độ nhất định, khống chế để căng thẳng không biến thành xung đột; (2) các chính sách được tiến hành từ từ, tiệm tiến và không vội vàng và (3) là tổng hòa của nhiều hệ thống chính sách khác nhau, từ kinh tế, chính trị, pháp lý cho tới quân sự.
Video đang HOT
Quan sát hành vi hung hăng của TQ từ năm 2009 cho tới nay, nhiều nhà phân tích đã nhấn mạnh thuật ngữ “Vùng xám” để ám chỉ hệ thống các chính sách mà Bắc Kinh đang sử dụng nhằm tăng cường sự kiểm soát của mình tại các khu vực tranh chấp trên biển. Việc sử dụng hải cảnh hay dân quân biển chỉ là một phần trong các chính sách đó mà thôi.
ThS NGUYỄN THẾ PHƯƠNG
Nói một cách khác, hệ thống chính sách “Vùng xám” mà TQ áp dụng hiện nay có thể được gọi với cái tên “chiến lược tiệm tiến cưỡng bức” và là một cách tiếp cận tổng thể nhằm giúp TQ kiểm soát hiệu quả lãnh thổ với mức độ tổn thất thấp nhất có thể tới vị thế, hệ thống trật tự khu vực và sự phát triển kinh tế của TQ.
Có thể thấy rõ các công cụ mà TQ sử dụng để thực hiện hóa chính sách này, kể từ năm 2009 cho tới nay. Nổi bật nhất có lẽ là việc TQ tuyên bố đường lưỡi bò nhưng lại chưa bao giờ công khai hoặc đưa ra tuyên bố chính thức nào về tính pháp lý của đường này. Điều này gây ra một sự mơ hồ rất lớn, khiến các quốc gia liên quan khó tìm ra cách đối phó phù hợp.
Cùng với đường lưỡi bò, từ năm 2009 TQ cũng đã phát động một “chiến dịch” lớn nhằm tìm mọi cách đưa ra các bằng chứng lịch sử để bảo vệ tính “chính danh” của đường lưỡi bò. Tuy nhiên, Bắc Kinh luôn từ chối tham gia vào các quá trình công pháp quốc tế để làm rõ tính chất pháp lý của yêu sách phi pháp này.
Bên cạnh đưa ra cách diễn giải riêng về lịch sử và pháp lý, TQ tăng cường hiện diện trên thực địa thông qua xây dựng hạm đội hải cảnh, cùng với một lực lượng dân quân biểnđông đảo. Các lực lượng bán quân sự như trên rất phù hợp với triết lý của “Vùng xám”: gây ra đủ căng thẳng, bảo vệ được sự hiện diện của TQ nhưng lại không đẩy căng thẳng lên mức độ xung đột nóng. Sự kiện HD-981 là minh chứng rõ ràng cho điểm này.
Cuối cùng chính là việc TQ tiến hành mở rộng và cải tạo các điểm đảo, bãi đá mà nước này chiếm đóng trái phép tại Hoàng Sa. Hành động này đã được thực hiện mà không có bất cứ sự can thiệp thực chất nào trên thực địa. Bắc Kinh đã tận dụng được sự mập mờ và chậm chạp trong đối phó về mặt pháp lý lẫn chính sách của cả Mỹ và các bên tranh chấp để tạo dựng lợi thế riêng của mình tại biển Đông.
Việt Nam đã làm gì để đối phó với “Vùng xám”?
Bản chất của chiến lược “Vùng xám” có thể gói gọn trong hai thành tố: Tiệm tiến và cưỡng bức. Vậy Việt Nam có thể làm gì? Đó là ngăn chặn TQ đạt được mục tiêu gặm nhấm và kiểm soát lãnh thổ một cách tiệm tiến thông qua nhiều biện pháp khác nhau. Thứ nhất, chính là tăng cường năng lực kiểm soát các vùng biển chủ quyền thông qua tăng cường xây dựng lực lượng cảnh sát biển của riêng Việt Nam, đồng thời với đó là tăng cường hiện đại hóa hải quân.
Thứ hai, không thể đứng một mình. Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả chiến lược cân bằng chủ động thông qua tăng cường hợp tác an ninh hàng hải với các cường quốc khu vực (đặc biệt là Mỹ). Cùng với đó là các cố gắng của Việt Nam nhằm gia tăng đoàn kết nội khối trong ASEAN. Cuối cùng chính là tăng cường nội lực. Nếu không có đủ tiềm lực kinh tế và tài chính thì quá trình đầu tư cho các lực lượng an ninh biển và gia tăng vị thế quốc tế sẽ mất đi hiệu lực vốn có của nó.
Theo PL
Các nước tăng cường sức mạnh cảnh sát biển đối phó Trung Quốc trên Biển Đông
Nhiều quốc gia quanh khu vực Biển Đông gần đây đã đầu tư phát triển sức mạnh của lực lượng cảnh sát biển để đối phó với những động thái ngày càng cứng rắn của Trung Quốc tại vùng biển này.
Tàu BRP Malabrigo của Lực lượng Cảnh sát biển Philippines. (Ảnh: Wikipedia)
Hải quân các nước Đông Nam Á đang tăng cường sức mạnh quân sự trên nhiều mặt để đối phó với các vụ việc căng thẳng trên Biển Đông và bảo quyền chủ quyền lãnh hải trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng gia tăng các động thái bành trướng tại vùng biển này.
Nhiều nước trong khu vực đã mua sắm các tàu mới với quy mô lớn hơn. Trước đây, lực lượng hải quân của các nước phần lớn chỉ sử dụng các tàu tuần tra và tàu tấn công nhanh để triển khai cho các chiến dịch ven biển. Còn bây giờ, các lực lượng hải quân đều trang bị các tàu chiến có tầm hoạt động xa hơn, kích cỡ lớn hơn, thông thường là các tàu hộ vệ hoặc tuần dương.
Nhiều lực lượng hải quân trong khu vực cũng trang bị các tàu mới cho các hoạt động tác chiến xa bờ. Singapore đã tự thiết kế và đóng mới 4 tàu đổ bộ lớp Endurance, đồng thời đóng thêm một tàu cũng thuộc lớp này cho hải quân Thái Lan. Indonesia và Philippines cũng đều mua các tàu đổ bộ lớp Makassar do Hàn Quốc thiết kế, trong khi Thái Lan đang vận hành tàu sân bay duy nhất ở Đông Nam Á.
Ngoài các tàu nổi, nhiều nước trong khu vực cũng trang bị các tàu ngầm cho lực lượng hải quân. Nếu như cách đây 15-20 năm, một số nước chưa từng sở hữu bất kỳ tàu ngầm nào thì nay, họ đã vận hành hoặc đặt mua số lượng tàu ngầm đáng kể.
Mặc dù xu hướng tăng cường sức mạnh của lực lượng hải quân các nước tại và xung quanh khu vực Biển Đông gây chú ý trong những năm gần đây, song lực lượng cảnh sát biển cũng được đánh giá đóng vai trò quan trọng không kém và được các nước đẩy mạnh phát triển. Lực lượng "tàu trắng" này ngày càng được các nước triển khai nhiều trong hoạt động thực thi quyền hàng hải, đặc biệt tại các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Các cuộc tuần tra của các lực lượng cảnh sát biển được tiến hành thường xuyên hơn và trong một số trường hợp trở nên cứng rắn hơn.
Các lực lượng cảnh sát biển ngày càng thể hiện rõ vai trò như lực lượng "ủy nhiệm" của lực lượng hải quân các nước trong việc thực thi tuyên bố chủ quyền trên biển, đặc biệt tại Biển Đông. Lực lượng cảnh sát biển cũng được sử dụng để phục vụ cho các tính toán an ninh của các nước trong khu vực.
Các tàu cảnh sát biển Trung Quốc từng va chạm với các tàu đánh cá của Việt Nam và Philippines, thậm chí tìm cách ngăn cản và đe dọa tàu BRP Benguet của Philippines tiến hành hoạt động tiếp tế trên Biển Đông.
Hạm đội "tàu trắng"
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc ngăn cản hoạt động của một tàu Philippines trên Biển Đông năm 2014. (Ảnh: AFP)
Theo Asia Times, Trung Quốc hiện sở hữu lực lượng cảnh sát biển hùng hậu nhất trên Biển Đông. Mãi cho tới gần đây, Trung Quốc vẫn vận hành 5 lực lượng hàng hải dân sự chính là Giám sát Hàng hải Trung Quốc (CMS), Tuần tra Biên giới, Tư lệnh Chấp pháp Ngư nghiệp, Hải quan và Cục An toàn Hàng hải (MSA). Nhiều lực lượng hoạt động chồng chéo nhau và cạnh tranh nhau cả về sứ mệnh triển khai cũng như nguồn kinh phí.
Tới năm 2013, 4 trong số 5 lực lượng trên được hợp nhất thành Lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG). CCG hiện vận hành hơn 100 tàu tuần tra, trong đó có các tàu tuần tra Type-218 dài 41m, mỗi tàu được trang bị hai súng máy 14,5mm. Năm 2007, hải quân Trung Quốc đã chuyển 2 tàu hộ vệ Type 053H 1.700 tấn cho CCG và đây cũng là những tàu lớn nhất của lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc vào thời điểm đó.
Năm 2016, Trung Quốc đóng tiếp hai tàu "quái thú" 12.000 tấn cho CCG, sau đó triển khai một tàu tại biển Hoa Đông và một tàu ở Biển Đông. Đây cũng là những tàu cảnh sát biển lớn nhất của Trung Quốc hiện nay.
Một số nước trong khu vực, trong đó có Malaysia và Philippines, cũng trang bị thêm các tàu mới và uy lực hơn cho lực lượng cảnh sát biển. Philippines gần đây đã tiếp nhận 10 tàu tuần tra dài 44m từ Nhật Bản.
Trong những năm gần đây, lực lượng cảnh sát biển thường được triển khai để bảo đảm quyền của các nước trong vùng đặc quyền kinh tế, đặc biệt là quyền đánh bắt cá. Trong bối cảnh các tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế trên Biển Đông có xu hướng gia tăng căng thẳng trong những năm vừa qua, lực lượng cảnh sát biển ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn đối với các quốc gia ven biển.
Sau khi thành lập lực lượng cảnh sát biển thống nhất, Trung Quốc được cho là sẽ có xu hướng sử dụng các tàu thuộc lực lượng này để đẩy mạnh yêu sách trên Biển Đông. Ngoài ra, các chương trình xây dựng và quân sự hóa trái phép các đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi đắp trên Biển Đông có thể cho phép Bắc Kinh triển khai thêm các tàu của lực lượng cảnh sát biển tới vùng biển này.
Một trong những lợi thế của việc triển khai lực lượng cảnh sát biển trong các hoạt động bảo vệ chủ quyền là lực lượng này được trang bị vũ khí hạng nhẹ, thông thường chỉ có pháo cỡ nhỏ hoặc súng máy. Điều này giúp giảm thiểu nguy cơ xảy ra xung đột thảm họa trên Biển Đông.
Tuy nhiên, nếu các vụ xung đột xảy ra nhiều hơn hoặc mức độ nguy hiểm gia tăng, chúng có thể leo thang thành các vụ việc căng thẳng có sự tham gia của cả lực lượng hải quân. Những động thái có thể làm gia tăng nguy cơ xung đột như sử dụng tàu cảnh sát biển để đánh chìm tàu thương mại, gây ra thương vong lớn, hay triển khai tàu cảnh sát biển để vận chuyển lực lượng từ các căn cứ trên Biển Đông, hoặc ngăn chặn khai thác dầu khí tại các khu vực tranh chấp, từ đó vấp phải hành động phản kháng có vũ trang.
Thành Đạt
Theo Dantri/ Asia Times
Trung Quốc đừng "đánh thức" Mỹ Tư lệnh Các chiến dịch hải quân Mỹ, Đô đốc John Richardson, sẽ thăm Bắc Kinh và TP Nam Kinh, đồng thời gặp gỡ người đồng cấp Trung Quốc là Phó Đô đốc Thẩm Kim Long và các lãnh đạo của Ủy ban Quân ủy trung ương Trung Quốc. Chuyến đi bắt đầu từ ngày 13 đến 16-1 này có mục đích "giảm...