Biến chứng của hen phế quản
Hen phế quản (HPQ) là một bệnh hay gặp. Biến chứng của HPQ rất nặng, nhưng người bệnh lại ít khi chú ý đến các biến chứng này. Về mùa đông – xuân, thời tiết lạnh là điều kiện thuận lợi để các biến chứng của bệnh hen xảy ra, cho nên mọi người cần phải biết để phòng tránh.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hen là một hiểm họa của loài người, là một trong các bệnh mạn tính hay gặp nhất.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 300 triệu người hen, dự tính đến năm 2025 con số này tăng lên 400 triệu người. Đông Nam Á là khu vực có độ lưu hành hen gia tăng nhanh: Malaysia 9,7%, Philippines 11,8%, Thái Lan 9,2%, Singapore 14,3%, Việt Nam khoảng 5%.
Tử vong do hen mỗi năm có 200.000 trường hợp, Việt Nam có 3.000 ca.Hen tiến triển từng đợt cấp, sau mỗi đợt, bệnh diễn biến nặng hơn và nguy hiểm hơn, là bệnh hay gây ra những biến chứng như:
Hơn 1/3 trẻ em nằm trong bệnh viện vì hen bị biến chứng xẹp phổi. Xẹp phổi một thùy hoặc nhiều thùy là biến chứng gặp tỷ lệ khoảng 10% số bệnh nhân vào viện. Khi hen ổn định thì tình trạng xẹp phổi sẽ khỏi.
Thường là biến chứng ở các bệnh nhân bị hen mạn tính. Nhân các đợt chuyển mùa, các đợt rét, thời tiết thay đổi đột ngột trong ngày, độ ẩm không khí cao là điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn, virus gây viêm nhiễm vùng tai mũi họng, đường hô hấp dưới, gây các đợt cúm làm cho những triệu chứng bệnh hen nặng hơn. Bệnh nhân sốt, khó thở tăng, có đờm nhiều. Xét nghiệm máu, bạch cầu đa nhân trung tính tăng. Xét nghiệm đờm thấy bạch cầu thoái hóa và tạp khuẩn, có khi thấy vi khuẩn lao.
Video đang HOT
Giãn phế nang đa tiểu thùy:
Sự đàn hồi của các phế nang ở bệnh nhân hen giảm dần theo thời gian, thở ra ít, thể tích khí cặn tăng. Còn gọi là bệnh khí phế thũng. Bệnh nhân khó thở khi gắng sức, thậm chí không thổi tắt được que diêm đốt cháy ở cách xa một ít. Ho khạc đờm nhiều, môi và đầu chi tím tái. Gõ phổi nghe tiếng rất vang, rì rào phế nang giảm, có khi mất. Tiếng tim xa xăm. Xquang: phổi quá sáng, cơ hoành hạ thấp, tim hình giọt nước, góc tâm hoành tù, các xương sườn nằm ngang và giãn rộng.
Tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất:
Gặp ở khoảng 5% hen mạn tính. Do các phế nang giãn rộng, tại vùng phế nang giãn, mạch máu thưa thớt, nuôi dưỡng kém, áp lực trong phế nang tăng. Khi phải làm việc gắng sức hoặc ho mạnh, thành phế nang dễ bị bục vỡ. Thường các dấu hiệu lâm sàng ít khi rầm rộ, nên phải có Xquang phổi mới phát hiện được. Khi có tràn khí phải xử trí cấp cứu kịp thời. Tràn khí màng phổi hai bên là nguyên nhân gây đột tử ở người hen phế quản.
Gặp ở 5% bệnh nhân hen mạn tính và nặng. Thể hiện khó thở khi gắng sức, tím tái liên tục, đau vùng hạ sườn phải, gan có thể to hoặc mấp mé bờ sườn. Điện tâm đồ: Nhịp xoang nhanh, sóng P cao nhọn. Sóng S chiếm ưu thế ở các chuyển đạo trước tim. Hen phế quản có khả năng phục hồi chức năng hô hấp, cho nên thời gian dẫn đến tâm phế mạn của từng bệnh nhân khác nhau, có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, thậm chí lâu hơn.
Ngừng hô hấp kèm theo có tổn thương não:
Do tình trạng suy hô hấp kéo dài, đưa đến thiếu ôxy não. Có lúc ngừng tim, ngừng hô hấp trong các thể hen nặng. Những trường hợp này thường có cơn ngạt thở đột ngột, dẫn đến tăng CO2 trong máu và gây tình trạng toan hỗn hợp, rồi cuối cùng đưa đến hôn mê và tử vong.
Suy hô hấp:
Thường chỉ gặp ở những bệnh nhân nằm viện, bị hen cấp tính nặng hoặc hen ác tính. Bệnh nhân khó thở, tím tái liên tục, đôi khi ngừng thở, phải thở máy hỗ trợ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây tử vong của bệnh hen.Hen là một gánh nặng cho xã hội, theo OMS bệnh hen gây phí tổn cho loài người lớn hơn chi phí cho hai căn bệnh hiểm nghèo của thế kỷ là lao và HIV/AIDS cộng lại. Biến chứng của hen phế quản còn nặng nề hơn.
Do đó những người bị bệnh hen phế quản và mọi người trong toàn xã hội cần có sự hiểu biết để có ý thức điều trị bệnh hen ngay từ những giai đoạn đầu đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ, tiến tới kiểm soát được cơn hen, giảm các cơn khó thở trong tuần, trong ngày là góp phần khống chế một cách có hiệu quả các biến chứng của bệnh hen. Khi gặp cơn hen ác tính hay nghi có các biến chứng của hen thì phải khẩn cấp đưa người bệnh đến các cơ sở cấp cứu ở bệnh viện để khám và xử trí kịp thời.
Theo SKDS
Chớ nựng trẻ quá tay!
Nhiều người lớn có thói quen chơi đùa với trẻ nhỏ bằng cách bồng bế tung trẻ lên cao hoặc đưa võng, rung lắc nôi thật mạnh. Đây là những động tác rất nguy hiểm, có thể khiến trẻ rơi vào hội chứng trẻ bị rung lắc dẫn đến tổn thương não vĩnh viễn, thậm chí tử vong!
Do đầu trẻ có trọng lượng khá lớn so với cơ thể nhưng cơ cổ chưa hoàn thiện nên trẻ dễ gặp nguy hiểm khi được nựng kiểu này. Ảnh: EVA
Thống kê ở Mỹ cho biết, mỗi năm có khoảng 1.200 - 1.400 trẻ chấn thương hoặc chết vì hội chứng trẻ bị rung lắc (họ gọi là shaken baby syndrome). Việt Nam chưa có thống kê chính thức, tuy nhiên chỉ riêng bệnh viện Xanh Pôn - Hà Nội đã từng tiếp nhận khoảng 20 trẻ bị hội chứng này.
Những tai nạn đáng tiếc
Bệnh nhi N.T.T., hai tuổi, ngụ ở Gia Lâm (Hà Nội) được người nhà đưa vào cấp cứu tại bệnh viện Xanh Pôn với những dấu hiệu suy hô hấp, nôn ói, lơ mơ, chân tay yếu... Thăm khám, các bác sĩ phát hiện một ổ nang dịch ở khoang dưới nhện của bán cầu đại não.
Theo lời kể của mẹ bé T., trong lúc chơi đùa với con, thấy bé khóc nên ba bé đã để bé nằm úp lên hai tay rồi đưa lên cao, hạ xuống thấp chơi trò "máy bay" nhằm chọc bé cười. Đến tối thì bé khóc dữ, nôn ói, co giật... Uống thuốc có đỡ nhưng vài ngày sau bé có hiện tượng mấp máy, giật giật mấy ngón tay phải, bỏ ăn, nôn ói liên tục, gương mặt không cảm xúc... nên người nhà đưa nhập viện.
Trường hợp tương tự là bệnh nhi nữ N.T.K., mười tháng tuổi, ngụ ở Tiền Hải (Thái Bình) được gia đình đưa vào cấp cứu với chẩn đoán xuất huyết não. Người nhà cho biết sau khi cho bé nằm võng ngủ trưa do anh trai bé đưa, thì xảy ra tình trạng nôn ói, vùng da trán tím tái, bỏ bú... Kết quả chẩn đoán cho thấy bé K. bị chảy máu não.
Bệnh hay gặp nhưng thường bị bỏ sót
BS Nguyễn Văn Phúc, khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Xanh Pôn cho biết: "hội chứng trẻ bị rung lắc" (Shaken baby syndrome) còn được gọi "chấn thương đầu kiểu ngược đãi" (abusive head trauma) là bệnh lý hay gặp nhưng thường bị bỏ sót. "Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, trong số trẻ bị chấn thương sọ não, có tới 33% là do hội chứng rung lắc. Khoảng 1/3 trong số đó tử vong do tổn thương não nặng, số còn lại có biểu hiện lâm sàng cấp tính hoặc bán cấp. Ngoài ra, có những trẻ không có triệu chứng nhưng bị ảnh hưởng di chứng thần kinh nặng nề trong suốt cuộc đời như chậm phát triển trí tuệ, thị lực kém, rối loạn hành vi nói và nghe, động kinh, tổn thương kỹ năng định hướng nhận thức", BS Phúc cho biết. Các nghiên cứu cho thấy những tổn thương có thể xảy ra chỉ với năm giây rung lắc!
Cũng theo BS Phúc, phần lớn hội chứng rung lắc gặp ở trẻ dưới hai tuổi, trong đó xảy ra cao nhất là ở trẻ từ sáu tuần đến bốn tháng tuổi. "Đầu trẻ có trọng lượng và thể tích khá lớn so với cơ thể, khối cơ của cổ lại quá yếu, không đủ sức nâng đỡ đầu nên khi bị rung lắc, quán tính và gia tốc của đầu lớn, dễ gây chấn thương sọ não. Mặt khác, tế bào não trẻ nhiều nước, tổ chức não lỏng lẻo, sợi trục thần kinh myelin hoá chưa hoàn toàn nên khi bị rung lắc rất dễ đứt sợi trục thần kinh hoặc làm phù nề nhu mô não. Ngoài ra, lượng dịch trong khoang dưới màng nhện nhiều, số lượng mạch máu não của trẻ nhiều hơn người lớn nhưng cấu trúc thành mạch không bền bằng người lớn. Bởi vậy, nhu mô não và các mạch máu rất dễ bị tổn thương khi rung lắc", BS Phúc giải thích.
Khó điều trị nhưng có thể phòng ngừa
Theo TS.BS Nguyễn Thị Thu Lan, hội Nhi khoa Việt Nam, đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi về mức độ và tư thế rung lắc như thế nào là nguy hiểm cho trẻ. Nhìn chung, các chuyên gia cho rằng những động tác mạnh làm thay đổi tư thế trẻ nhanh, như trẻ đang nằm được bế thốc dậy, xốc nách nhấc bổng trẻ lên cao rồi hạ xuống, rung lắc hoặc xoay trẻ liên tục, đánh vào đầu hay có những hành động bạo hành làm đầu trẻ bị di chuyển nhanh và mạnh... đều rất nguy hiểm, có thể gây hội chứng rung lắc. "Phát hiện tổn thương não do hội chứng rung lắc gây ra rất khó, bởi triệu chứng thường không rõ ràng và dễ nhầm với một số tình trạng khác như nhiễm siêu vi, rối loạn tiêu hoá... Việc điều trị tổn thương não đa phần cũng rất khó khăn. Tuy nhiên, bệnh lý này lại dễ phòng ngừa", BS Lan tư vấn.
Để phòng ngừa, các gia đình tuyệt đối không thực hiện các động tác rung lắc mạnh bạo với trẻ nhỏ, nhất là trẻ dưới hai tuổi. Không thay đổi tư thế trẻ quá đột ngột. Không tát, đánh vào đầu trẻ. Khi di chuyển trẻ, giữ cổ trẻ ở tư thế tương đối cố định. "Nếu trẻ có biểu hiện quấy khóc nhiều, bỏ ăn hay bỏ bú, ói, ngủ lịm, gương mặt không cảm xúc, da xanh tái nhìn thấy rõ nhất vùng trán, co giật, lờ đờ, ngủ gà ngủ gật... và có kèm theo tình trạng rung lắc trẻ trước đó, các gia đình nên nghĩ ngay đến hội chứng trẻ bị rung lắc và đưa đến bác sĩ thăm khám sớm", BS Lan nói.
Theo Lê Hương
Sài Gòn tiếp thị
Giãn phế quản và biến chứng nguy hiểm Các tổn thương nào dẫn đến GPQ? Các bệnh như lao, viêm phổi vi khuẩn, virut, sởi, ho gà, dịch dạ dày hoặc máu bị hít xuống phổi, hít thở khói hơi độc, nhiễm khuẩn phế quản xảy ra nhiều lần... sẽ dẫn đến viêm hoại tử thành phế quản. Bệnh xơ hoá kén cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến GPQ (thường...