Bí mật thảm họa tàu ngầm kinh hoàng nhất trong lịch sử Liên Xô
Thảm họa tàu ngầm Komsomolets không chỉ khiến 42 thủy thủ chết thảm mà còn làm nó chìm sâu dưới đáy biển hoang lạnh và có nguy cơ gây rò rỉ phóng xạ.
Trong cuộc đua giữa “kẻ tám lạng, người nửa cân” suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ liên tục lập những kỷ lục “đầu tiên” về tàu ngầm, bao gồm:
Xuất xưởng chiếc tàu ngầm USS Nautilus (SSN 571) chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới năm 1954; và chiếc tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo chiến lược đầu tiên USS George Washington (SSBN 598) năm 1960 thì Liên Xô đang vô cùng lo lắng và sốt sắng.
Sau khi chế tạo thành công tàu ngầm K-19 năm 1959 (thế hệ tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo đầu tiên của Liên Xô) để bắt kịp Mỹ, năm 1966 Liên Xô bắt tay ngay vào việc chế tạo chiếc tàu ngầm quân sự lặn sâu nhất thế giới.
8 năm sau, vào năm 1974, sau một thời gian dài tiêu tốn rất nhiều công sức và tiền bạc, cuối cùng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân Komsomolets có khả năng lặn sâu nhất thế giới của Liên Xô cũng hoàn thành.
Tàu ngầm lặn sâu nhất thế giới Komsomolets, trở thành niềm tự hào lớn lao của Hải quân Liên Xô.
Komsomolets trở thành niềm tự hào lớn lao của Hải quân Liên Xô khi nắm giữa kỷ lục mà nhiều quốc gia trên thế giới phải thèm muốn: Với lớp vỏ thiết kế bằng titan có khả năng chịu lực cao, tàu ngầm hạt nhân Komsomolets có thể lặn ở độ sâu mà chưa một chiếc tàu ngầm nào tính đến đầu thế kỷ 21 đạt đến: 1.000 mét.
Vào ngày 4/8/1984, tàu ngầm Komsomolets lập kỷ lục thực tế khi lặn được ở độ sâu 1.020 mét tại biển Na Uy. Từ đó, Komsomolets bắt đầu thực hiện các chuyến tuần tra dưới biển sâu.
Tàu ngầm Komsomolets ký hiệu K.278 có tổng chiều dài 122 mét, rộng 11,5 mét, thuộc lớp 685 Plavnik-class. Tàu có sức chứa khoảng gần 100 thủy thủ.
Nhờ khả năng lặn sâu vô địch và được trang bị 22 tên lửa hành trình và hai ống phóng ngư lôi, tàu ngầm hạt nhân Komsomolets được mệnh danh là “bất khả xâm phạm” vì không 1 tàu ngầm nào có khả năng địch lại nó.
Komsomolets được mệnh danh là “bất khả xâm phạm”.
Việc Komsomolets ra đời đã khiến Liên Xô đứng ở thế thượng phong so với Mỹ trong cuộc đua không ngừng nghỉ thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Thế nhưng, một thảm họa đã xảy ra. Nếu như kỷ lục mà Komsomolets đạt được khiến nó nổi tiếng bao nhiêu thì thảm họa mà nó phải hứng chịu cũng khiến nó nổi tiếng không kém bấy nhiêu.
Thảm họa biến Komsomolets trở thành “cỗ quan tài sắt” chìm dưới biển sâu
Việc Liên Xô gặp các thảm họa hạt nhân và phi hạt nhân là điều không hiếm trong hồ sơ thời kỳ Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên, thảm họa xảy ra vào năm 1989 này của tàu ngầm hạt nhân lặn sâu nhất thế giới khiến Liên Xô một phen chao đảo.
15 năm sau ngày ra đời, Komsomolets phải hứng chịu một thảm họa biến nó trở thành “cỗ quan tài sắt” khổng lồ chìm dưới biển sâu.
Ngày 7/4/1989, khi đang tuần tra tại vùng biển Barents (thuộc Bắc Băng Dương, ở phía bắc Na Uy và Nga) ở độ sâu 381 mét, một sự cố kỹ thuật đã chấm dứt hoàn toàn “đế chế” tàu ngầm lặn sâu nhất thế giới của Liên Xô.
Video đang HOT
Ngày 7/4/1989 trở thành ngày định mệnh của con tàu và toàn bộ thủy thủ đoàn:
Sau khi kết thúc cuộc tuần tra, Komsomolets trở về căn cứ như dự kiến. Vào lúc 11 giờ trưa, báo cáo của sĩ quan trực tàu cho biết các khoang của tàu vẫn hoạt động bình thường.
Thế nhưng, chỉ 3 phút sau, hệ thống báo động hú vang khi nhiệt độ ở khoang 7 của tàu (gần đuôi tàu) cao bất thường ở nhiệt độ 70 độ C.
Bằng cách nào, một tia dầu đã xịt lên bề mặt nóng trong khoang làm bùng lên ngọn lửa lớn. Sĩ quan đang trực tại khoang 7 liên lạc với thuyền trưởng nhưng không được.
Sau khi được báo cáo xảy ra hỏa hoạn ở khoang số 7 và liên tục liên lạc với thủy thủ khoang 7 nhưng không có tín hiệu, thuyền trưởng tàu quyết định xả khí freon nhằm dập tắt đám cháy trước khi nó lan rộng ra các khoang khác, gây nguy hiểm cho toàn bộ con tàu và 69 thủy thủ.
Freon là một loại khí làm lạnh không màu, không mùi, không cháy nhưng lại gây tử vong cho người nếu tiếp xúc phải.
Kể từ giây phút đó, sĩ quan trực tàu chẳng còn cơ may sống sót. Tai họa không ngừng lại khi khí freon chẳng đủ sức dập tắt ngọn lửa đang càng ngày càng bùng lên dữ dội, khiến khoang 7 trở thành lò nung nóng rẫy.
Lúc xảy ra hỏa hoạn, tàu ngầm Komsomolets đang ở độ sâu 152 mét.
Áp suất khổng lồ tại khoang 7 đã đẩy dầu sang các khoang 6 khiến lửa cháy lan sang các khoang bên cạnh. Ngọn lửa khủng khiếp tới mức, các thủy thủ khoang 6 không kịp đeo mặt nạ khí và đồ bảo hộ. Họ nhanh chóng tử vong trong biển lửa và khí độc freon.
Lúc này, lo sợ lò phản ứng tan chảy, thủy thủ đoàn buộc phải dừng máy phát điện còn lại trong khi máy phát điện trước đã bị hỏng, con tàu dừng lại đột ngột ở độ sâu 152 mét và bắt đầu mất sức nâng.
10 phút sau, lúc 11h13, hệ thống bơm dầu trên tàu bị ngắt, tàu bị mất hệ thống kiếm soát hệ thống áp suất thủy lực để nổi lên mặt nước.
Thuyền trưởng tàu buộc phải ra lệnh quá trình nổi khẩn cấp bằng cách cho nổ các bể nước dằn để tạo phản lực đẩy tàu lên. Sau những cố gắng ban đầu, tàu nổi lên được 91 mét rồi dần dần cũng nổi lên mặt nước.
Tuy nhiên, thảm họa bây giờ mới thực sự bắt đầu. Lúc này, lúc 11h21, toàn bộ các khoang tàu đã chìm trong biển lửa khiến nhiệt độ ở một khoang tàu tăng lên 1.000 độ C.
Khí CO ở khoang 7 phát tán khiến các thủy thủ còn lại mặc dù đã đeo mặt nạ dưỡng khí bắt đầu thấy nôn nao, chóng mặt.
Thuyền trưởng liên tục đánh điện về căn cứ, nhưng sở chỉ huy chỉ nhận được những tín hiệu rời rạc, báo rằng 1 tàu ngầm Liên Xô đang bị mắc kẹt ngoài vùng biển Barents.
Hạm đội phương Bắc lập tức lên đường cứu trợ sau khi xác định rõ tọa độ của tàu Komsomolets. Đến 14h40, máy bay đã tiếp cận được tàu ngầm. Khá nhiều thủy thủ đã được cứu khi bên trong tàu là ngọn lửa nóng hơn 1.000 độ C và bên ngoài là nhiệt độ biển ở mức 2 độ C.
Vị trí tàu Komsomolets chìm (chấm đen).
Con tàu dường như chìm dần khi số thủy thủ trên tàu chưa được cứu hết, thuyền trưởng hạ lệnh tiếp tục cho nổ 2 bể dằn để giữ cho tàu nổi tiếp. Vị thuyền trưởng không lên trực thăng cứu hộ mà tiếp tục xuống dưới để cứu các thủy thủ mắc kẹt.
Komsomolets lúc này chìm rất nhanh, buộc những thủy thủ còn lại phải đóng nắp tháp để không cho nước tràn vào. Những người còn mắc kẹt trong tàu còn tia hi vọng cuối cùng vào những kén thoát hiểm.
Sau tiếng nổ, những chiếc kén vọt lên mặt biển rồi nhanh chóng chìm sâu dưới dòng biển lạnh dò nước tràn vào nắp kén bị bung trước đó.
Kết quả, thuyền trưởng và 4 thủy thủ khác đã vĩnh viễn chìm sâu dưới đáy biển hoang lạnh cùng con tàu Komsomolets xấu số. Cuối cùng, 42 người trong tổng số 69 thủy thủ đã hi sinh.
Thảm họa chìm tàu ngầm Komsomolets ngày 7/4/1989 trở thành thảm họa kinh hoàng nhất trong thế giới tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô.
Không chỉ kết thúc “đế chế” tàu ngầm lặn sâu nhất thế giới, thảm họa Komsomolets còn tạo ra “nguy cơ Tchernobyl” cho vùng biển Bắc Âu khi lò phản ứng và 2 đầu đạn hạt nhân vẫn đang chìm ở độ sâu 1.677 mét.
Nga đã liên tục thực hiện các kế hoạch trục vớt tàu ngầm Komsomolets.
Đến nay, Nga đã liên tục thực hiện các kế hoạch trục vớt tàu ngầm Komsomolets nhằm ngăn chặn thảm họa rò rỉ phóng xạ khi tàu bị nước biển mặn ăn mòn.
Để tránh nguy cơ rò rỉ, Nga đã dùng các biện pháp đặc biệt để vây kín con tàu, biến nó trở thành “nấm mồ chôn titan” khổng lồ ở độ sâu hơn 1.600 mét.
Theo Soha News
'Gấu Nga' Tu-95: Đối thủ xứng tầm của 'Pháo đài bay' B-52
Tu-95 từng được mệnh danh là "lời đáp trả" của Nga với pháo đài bay B-52 của Mỹ.
60 năm trước, ít có chiếc máy bay nào có thể bị nhầm lẫn với máy bay Tupolev Tu-95 "Con gấu" của Liên Xô nhờ vào kích cỡ cực lớn của nó. Cũng ít có loại máy bay nào có thể bay một quãng đường xa khi tải nặng được như Tu-95. Đây chính là lời đáp trả của Liên Xô với pháo đài bay B-52 của Mỹ.
Từ máy bay ném bom hạt nhân thời chiến tranh lạnh
"Con gấu" ra đời từ mong muốn phát triển lực lượng máy bay ném bom chiến lược của Liên Xô có khả năng đáp trả lại Mỹ. Chiếc máy bay bốn động cơ tuốc bin cánh quạt có thể bay một mạch 800 km trong vòng một tiếng đồng hồ khiến nó trở thành máy bay động cơ cánh quạt bay nhanh nhất trong lịch sử.
Không chỉ vậy, Tu-95 có buồng chứa nhiên liệu lớn và có thể bay được hàng ngàn km chỉ bằng lượng nhiên liệu ban đầu. Nhiều cải tiến về khả năng tiêu thụ nhiên liệu về sau còn giúp máy bay tăng cường quãng đường đi được thêm nữa. trong khi các chuyến bay tuần tra trong thời kỳ Chiến tranh lạnh kéo dài thông thường khoảng 10 tiếng đồng hồ thì Tu-95 có thể bay gấp đôi thời gian đó.
Ý tưởng thiết kế ban đầu dành cho Tu-95 khá rõ ràng: Trong trường hợp Mỹ và Liên Xô nổ ra chiến tranh, các phi đội Tu-95 sẽ bay ngang qua vùng Cực Bắc để thả bom hạt nhân xuống Mỹ. Mặc dù nhiều chiếc có thể bị lưới phòng không tiêu diệt, chỉ cần một số chiếc lọt qua là đã đạt kết quả. Tuy vậy, Liên Xô lại không duy trì lực lượng máy bay ném bom hạt nhân thường trực như Mỹ.
Máy bay Tu-95 thả quả bom Tsar Bomba xuống đảo Severny
Ngoài ra, Tu-95 còn được dùng để thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Năm 1961, một chiếc Tu-95V đã thả quả bom Tsar Bomba xuống đảo Severny. Quả bom 50 MT này là thứ vũ khí hạt nhân lớn nhất và mạnh nhất từng được cho nổ. Chiếc máy bay đã may mắn thoát khỏi vụ nổ và quay trở về căn cứ.
Đến nhiều biến thể khác nhau
Đến thập niên 60, Liên Xô nhận định rằng đầu tư vào một lực lượng máy bay ném bom chiến lược nhằm vào Mỹ là một kế hoạch tốn kém. Do đó, nhiều biến thể khác của Tu-95 ra đời nhằm phục vụ cho các nhiệm vụ khác nhau.
Một trong số đó là xây dựng một nền tảng phóng tên lửa hành trình tầm xa. Biến thể Tu-95K có khả năng mang theo 20 tên lửa AS-3 Kangaroo, vốn được chế tạo từ thân máy bay MiG-19.
Ngoài ra, Tu-95 còn được dùng để theo dấu các hạm đội hàng không mẫu hạm Mỹ. Nếu chỉ dựa vào các hệ thống cảm quan, không dễ gì để dò tìm các tàu ngoài khơi. Do vậy, với khả năng bay hàng giờ liền để bao quát các vùng biển rộng lớn, Tu-95 là lựa chọn lý tưởng để tìm kiếm vị trí của các hạm đội Mỹ và theo dấu chúng.
Máy bay F-4 của Hải quân Mỹ hộ tống Tu-95 bay qua chiến hạm Kitty Hawk. (Nguồn: Hải quân Mỹ)
Từ nhu cầu đó, mẫu T-95RT ra đời, được trang bị radar tìm kiếm bề mặt chuyên dùng cho trinh sát hàng hải. Mẫu này còn được dùng trong chiến tranh tâm lý nhằm tạo ra nỗi sợ bị tấn công từ trên không trong các đơn vị Hải quân của Mỹ. Các máy bay của Hải quân thường phải cất cánh để đuổi chiếc Tu-95 đi. Những bức ảnh về các vụ giáp mặt trên không như vậy đã trở thành biểu tượng của thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Bên cạnh đó, Tu-95 còn có nhiều biến thể thử nghiệm khác, bao gồm Tu-95LAL sử dụng năng lượng từ lò phản ứng hạt nhân, hay Tu-95K được thiết kế để chuyên chở và triển khai máy bay MiG-19 ngay trên không.
Vẫn giữ vững vị thế
Trong thế kỷ XXI, Tu-95 vẫn còn được sử dụng trong khu vực Thái Bình Dương và Đại Tây Dương với nhiệm vụ chủ yếu là đi thăm dò xung quanh các quốc gia khác.
Đã có nhiều chuyến bay Tu-95 được phát hiện gần bờ biển Anh, California, khu vực ADIZ trên Alaska và cả trong không phận Nhật Bản. Tuy nhiên, trong phần lớn thời gian, chúng không thực sự xâm phạm không phận nước ngoài.
Năm 2007, Tổng thống Putin đã cho phục hồi các chuyến bay tuần tra trong thời Chiến tranh Lạnh, mục đích có thể nhằm nhắc cho các nước khác rằng Nga vẫn còn khả năng đưa máy bay ném bom hạt nhân đến gần không phận của họ nếu nước này muốn vậy.
Những bức ảnh về các vụ giáp mặt trên không đã trở thành biểu tượng của thời kỳ Chiến tranh lạnh. (Nguồn: Hải quân Mỹ)
Tuy vậy, với động cơ tuốc bin có tiếng ồn lớn đến mức tàu ngầm bên dưới có thể nhận ra được, "Gấu Nga" hoàn toàn không thể ẩn mình trước các hệ thống phòng không hiện đại. Dù vậy, nếu đó là nền tảng phóng tên lửa hành trình thì máy bay sẽ không cần phải đến gần các khu vực phòng không như vậy.
Vào cuối năm 2015, Bộ Quốc phòng Nga đã công bố đoạn phim ghi lại cảnh máy bay Tu-95 phóng tên lửa hành trình vào các mục tiêu tại Syria. Đây là lần đầu tiên Nga triển khai các nền tảng phóng tên lửa hành trình dưới biển và trên không và được xem là cơ hội để biểu diễn năng lực quân sự của nước này.
Ngày nay, quân đội Nga đã sở hữu nhiều loại máy bay ném bom có khả năng mang nặng hơn và bay nhanh hơn Tu-95. Tuy vậy, Tu-95 vẫn đáp ứng được các nhiệm vụ được giao như chở tên lửa hành trình hay thăm dò các vùng biển.
MINH TRƯỜNG
Theo PLO
Bí ẩn "tàu ngầm ma ám" của Liên Xô khiến 42 người chết thảm Trong suốt 32 năm, hàng loạt điềm xui bám riết lấy tàu ngầm của Hải quân Liên Xô làm 42 người thiệt mạng khiến người ta gọi nó là "tàu ngầm ma ám". Có một câu nói vui trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh rằng: "Giữa các cường quốc chỉ có một điểm chung duy nhất đó là họ không có điểm chung...