Bi kịch của gia đình Đại tá (Kỳ 1)
Đại tá Chearles đã có một cuộc sống gia đình hạnh phúc bên vợ và cậu con trai bé nhỏ ở New Jersey cho đến khi cậu con trai bất ngờ bị bắt cóc vào ngày 1/3/1932.
Bi kịch
Chearles Lindbergh là một trong những phi công trẻ nổi tiếng của nước Mỹ. Năm 25 t.uổi, Chearles thực hiện thành công chuyến bay từ Mỹ, xuyên Đại Tây Dương và hạ cánh an toàn tại Paris. Chuyến bay này đã đ.ánh dấu một bước tiến quan trọng cho lịch sử hàng không nước Mỹ. Chearles nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ từ thế giới.
Chearles có một cuộc sống gia đình hạnh phúc bên vợ và cậu con trai bé nhỏ ở New Jersey. Nhưng cuộc sống đó đã thay đổi hoàn toàn khi cậu con trai bé nhỏ biến mất và b.ị g.iết dã man vào ngày 1/3/1932.
Sự biến mất của cậu con trai, những phiền phức của giới truyền thông khiến khiến vợ chồng Lingdberg thực sự cảm thấy mệt mỏi, họ phải chuyển tới sống trong một khu biệt thư tách biệt để tránh sự phiền toái đó.
Hơn tháng sau, xác cậu bé Charles A. Lindbergh Jr được tìm thấy trong một khu rừng gần đấy, không còn nguyên vẹn. Một vết nứt lớn trên đầu cậu bé như bị tác dộng bởi một vật sắc nhọn. Không thể tưởng tượng được điều gì đã xảy ra với cậu bé.
Đại tá Chearles Lindbergh
Gần 24 tiếng đồng hồ tại hiện trường, cảnh sát mới có thể xác định đó chính là xác của Charles A. Lindbergh Jr nhờ sự hộ trợ của các chuyên viên y tế và cha của cậu bé. Phần còn lại của cơ thể được hỏa tang sau đó. Kết thúc 33 ngày gia đình Lindbergh tìm kiếm và hi vọng.
Trường hợp của gia đình Lindbergh chỉ là một trong số ít những vụ bắt cóc và s.át h.ại con của nhưng người nổi tiếng ở nước Mỹ. Vụ án còn được nhắc mãi bởi sự nổi tiếng của Charles Lindbergh.
Cậu chuyện của gia đình Lindbergh, sự bất hạnh của gia đình như sự sụp đổ của một hình tượng được ngưỡng mộ của nước Mỹ. Và cho đến nay, người ta vẫn nhắc đến bị cáo Bruno Richard Hauptmann, một di dân người Đức, được cho là có liên quan đến cái c.hết của cậu bé Lindbergh.
Năm 1927, Lindbergh 25 t.uổi, là người đầu tiên một mình bay qua Đại Tây Dương. Lindbergh được ca ngợi như một anh hùng của nước Mỹ và được phong hàm cấp tá trong Lực lượng không quân Mỹ. Sau chuyến bay đó, Lindbergh bắt đầu sự nghiệp của mình như một chuyên gia tư vấn trong không quân.
Năm 1929, Lindnergh gặp Anne Morrow, con gái của ngài đại xứ Mexico Dwight Morrow, đám cưới nhanh chóng được diễn ra. Năm 1930, đứa con đầu tiên của họ, cậu bé Charles A. Lindbergh , Jr chào đời.
Hai vợ chồng Lindbergh chưa sẵn sàng cho cuộc sống riêng của mình cùng với cậu con trai bé bỏng khi bị giới báo chí và truyền thông quan tâm quá mức. Lindbergh cùng vợ liên tục bị săn đuổi bởi giới báo chí, họ ít xuất hiện trước công chúng và sống khép kín hơn.
Để tránh bị làm phiền, Lindbergh đã xây một khu nhà trên một khu đồi xa xôi ở New Jersey, gần thị trấn nhỏ Hopewell.
Video đang HOT
Anne Morrow, vợ đại tá Chearles Lindbergh
Gia đình Lindbergh sống ở một ngôi biệt thự Englewood, New Jersey, ngày cuối tuần, họ thường tới Hopewell để nghỉ ngơi. Như mọi lần, họ sẽ rời Hopewell vào buổi sáng thứ 2. Nhưng hôm đó, cậu con trai nhỏ của họ bị cảm lạnh, cả hai quyết định ở lại Hopewell thêm 1, 2 ngày.
Vào một đêm mưa, lạnh ngày 1/3/1932, tại khu vực nông thôn thị trấn Hopewell, New Jersey, Charles A. Lindbergh , Jr , 20 tháng t.uổi bị bắt cóc.
8h tối, ý tá Betty Gow vào phòng kiểm tra, thấy cậu bé đã ngủ, cô yên tâm rời khỏi phòng. 10h, khi Betty quay lại, cô giật mình hoảng hốt khi không thấy cậu bé trong phòng. 1 tiếng trước đó, vợ chồng Lindbergh đang ngồi trò chuyện trong phòng khách, bất ngờ đại tá Lindbergh nghe thấy tiếng động lạ, người giúp việc giải thích do quả cam trên bàn ăn rơi xuống đất.
Điều tra
10h25, Ollie Whately, người quản gia ở đây gọi điện cho cảnh sát Hopewell, cảnh sát bang New Jersey cũng nhận được cuộc gọi thông báo. Trời tối đen, đại tá Lindbergh tay cầm khẩu s.úng trường bắt đầu lục soát ngôi nhà.
Hơn tiếng sau đó, đại tá Norman Schwarzkopf cũng đã có mặt tại khu nhà để chỉ huy việc tìm kiếm. Đại tá Norman Schwarzkopf là một sĩ quan quân đội trong Thế chiến thứ nhất. Ở t.uổi 26, Norman đã được bổ nhiệm là người đứng đầu của cảnh sát bang New Jersey.
Lindbergh hoàn toàn đặt niềm tin vào người đồng nghiệp Norman Schwarzkopf trong việc tìm kiếm con trai mình.
Cảnh sát tiến hành điều tra khu vực bên ngoài ngôi nhà. Họ tìm thấy nhiều dấu chân trên nền đất ẩm ướt bên dưới cửa sổ. Có thể h.ung t.hủ đã dùng thang để tiếp cận với phòng ngủ của cậu bé.
Tiến hành điều tra, cảnh sát tìm thấy một chiếc thang cũ bị vứt lại gần một con đường đất nhỏ dẫn tới khu nhà, bên cạnh có vết lốp xe dừng lại.
Thời điểm này, tại khu nhà nơi xảy ra vụ bắt cóc đã có mặt ba đại tá nổi tiếng Lindbergh, Breckinridge, và Schwarzkopf, cùng với luật sư Henry C. Breckinridge, bạn của Lindbergh.
Cảnh sát bắt đầu tiến hành việc thu thập dấu vân tay tại hiền trường.
Theo Khampha
Người mẹ hư hỏng và cái c.hết của 2 đ.ứa t.rẻ (Kỳ 3)
&"Một người đàn bà hư hỏng như Alice Crimmins có thể làm bất cứ điều gì."
Alice Crimmins ngất tại phiên tòa
Một năm rưỡi sau cái c.hết của bọn trẻ, công tố viên Nat Hentel nhận được một bức thư với nội dung cung cấp thông tin vụ án từ một người không kí tên.
Theo thông tin nhân chứng cung cấp, h.ung t.hủ có thể là một phụ nữ cùng một người đàn ông trung t.uổi với dáng vẻ cao to, tóc đen.
Cảnh sát tỏ ra lạc quan hơn với hị vọng thông tin sẽ giúp ích nhiều cho cuộc điều tra đang bế tắc.
Tiến hành điều tra 39 căn hộ trên khu vực được xác định là nhà của nhân chứng, đối chiếu nét chữ trong bức thư nặc danh với nét chữ thu được của các đối tượng, bước đầu cảnh sát xác định được danh tính của nhân chứng là Sophie Earomirski.
Sophie Earomirski là một người phụ nữ trung t.uổi có chút vấn đề về trí nhớ.
Khi các nhà điều tra đặt câu hỏi về những thông tin liên quan đến bức thư cung cấp thông tin vụ án, Sophie nói rằng mình có thể nhận diện người đàn bà tối hôm đó chính là Alice Crimmins.
Sophie biết Alice sống cùng khu phố và biết rõ cô hơn thông qua những thông tin báo chí cung cấp liên quan đến vụ án.
Dựa trên thông tin của Sophie, cảnh sát đặt ra giả thiết Alice đã g.iết những đ.ứa t.rẻ của mình với sự hỗ trợ của người tình.
Alice từng khai nhận với thám tử Piering rằng đêm trước hôm xáy ra vụ mất tích, cô có gọi điện đến quán bar Capris và nói chuyện với Anthony Grace.
Có thể Alice đã gọi điện để thông báo cho Anthony mình đã g.iết Missy trong lúc nóng giận, cậu bé Eddie đã nhìn thấy điều đó. Alice cần sự hỗ trợ của Anthony để giải quyết chuyện này ?
Cái chăn màu trắng Sophie nhìn thấy Alice và người đàn ông lạ mang đi đêm hôm đó chính là cô bé Missy và đ.ứa t.rẻ được dắt đi là Eddie.
Dựa trên đặc điểm người đàn ông được nhắc đến trong bức thư, ngoài Anthony, cảnh sát còn tập trung điều tra người đàn ông có tên là Joseph Rorech. Rorech là một trong số những người tình của Alice trong thời gian đó.
Cảnh sát đã kiểm tra những cuộn băng nghe trộm cuộc điện thoại giữa Alice và Rorech. Tuy nhiên, Alice không hề đề cập chi tiết nào liên quan đến cái c.hết của bọn trẻ.
Tiến hành thẩm vấn Rorech, Rorech cho biết Alice đã từng nhắc với mình về việc kiện tụng của chồng cũ liên quan đến hai đ.ứa t.rẻ. Alice nói rằng thà g.iết bọn trẻ còn hơn giao chúng cho chồng cũ.
Lời khai của Rorech có thể buộc tội Alice. Tuy nhiên, sau đó Rorech đã liên hệ lại với cảnh sát và phủ nhận lời khai của mình, đồng thời đưa ra bằng chứng ngoại phạm đêm hôm đó của mình.
Ngày 11/9/1967, hai năm hai tháng sau cái c.hết của Missy và Eddie, Alice Crimmins bị bắt vì bị nghi ngờ liên quan đến cái c.hết của Missy. Chưa có bằng chứng buộc tội Alice g.iết Eddie vì giám định y khoa không đưa ra được kết quả giám định cụ thể với cái xác đang p.hân h.ủy.
Báo chí lại được dịp nhắc tới người phụ nữ này khi đăng tin Alice bị bắt giữ trong bộ trăng phục bó sát, gợi cảm. Họ nhắc đến Alice như một biểu tượng mới của cuộc cách mạng s.ex ở Mỹ.
Phiên tòa xét xử Alice được bắt đầu vào tháng 5/1968. Thẩm phán Peter Farrell chủ trì phiên tòa.
Khi đại diện pháp y cung cấp thông tin về cái xác cô bé Missy, Alice đã bất ngờ khóc thành tiếng và ngất ngay tại tòa. Phiên tòa bị gián đoạn trước hành vị được coi là diễn kịch của Alice.
Việc Rorech với tư cách nhân chứng cung cấp thông tin việc Alice có ý định g.iết bọn trẻ khi xảy ra kiện với chồng cũng khiến Alice phản ứng mạnh mẽ. Cô không nghĩ người tình của mình lại có thể làm chứng chống lại mình trước tòa.
Nhân chứng quan trọng nhất là Sophie Earomirski.
Sau khi tường thuật lại những gì mình chứng kiến, Sophie đã chỉ thằng về phía Alice và tuyên bố, &"Chính là người phụ nữ này" khi được cảnh sát yêu cầu nhận diện.
Alice thừa nhận mình có nới với Rorech chuyện g.iết bọn trẻ, nhưng đó chỉ là trong phút nóng giận vì vụ kiện với chồng cũ.
Trong phiên tòa, ngoài những bằng chứng liên quan đến cái c.hết của hai đ.ứa t.rẻ, những câu chuyện liên quan đến việc bồ bịch, ngoại tình bên ngoài hôn nhân của Alice cũng được nhắc tới.
Và lời kết của một công tố viên khi đề cập đến chuyện này đó là, &"Một người đàn bà hư hỏng như Alice Crimmins có thể làm bất cứ điều gì."
Khi nghe tòa tuyên bố mình có thể đối mặt với bản án cáo nhất cho tội g.iết cô bé Missy, Alice đã ngất đi vì sợ hãi.
Tháng 3/1971, 6 năm sau cái c.hết của bọn trẻ, phiên tòa xét xử Alice lại được mở lại. Lần này, Alice bị buộc tội liên quan đến cả cái c.hết của Eddie.
Theo Khmapha
Góa phụ độc ác nơi thị trấn nghèo (Kỳ 1) Xác một góa phụ và 3 đ.ứa t.rẻ đáng thương được tìm thấy trong một ngôi nhà bị lửa thiêu trụi. Belle Gunness và bọn trẻ Thảm kịch Một buổi sáng đẹp trời phía đông Indiana sẽ như mọi ngày nếu thảm kịch không xảy ra. Ngày 28/4/1908, Farmhand Joe Maxson thức dậy sau một đêm dài mất ngủ. Mùi đồ nướng đ.ánh...