Bị không lực Mỹ bắn rơi và cuộc “lật đổ” của MiG-21 Việt Nam
Chỉ trong ít phút ngày 2/1/1967, có đến 5 chiếc MiG-21 của Trung đoàn 921 bị những chiếc F- 4C Không quân Mỹ bắn rơi ngay trên khu vực sân bay Nội Bài.
Chiến dịch Bolo và tổn thất lớn đầu tiên của Việt Nam
Trong năm 1966, Không quân Việt Nam đã giành được những chiến công vang dội trước Không quân Mỹ. Chiến thuật sử dụng tiêm kích MiG-21 cùng kỹ năng của phi công đã dần được cải thiện. Tuy nhiên, năm 1967 lại mở đầu bằng một ngày đen tối đối với Không quân Việt Nam.
Chỉ trong ít phút tham gia không chiến vào ngày 02/01/1967, đã có đến 5 chiếc MiG-21 của Trung đoàn 921 bị những chiếc F-4C thuộc Liên đội không quân chiến thuật số 8, Không quân Mỹ bắn rơi ngay trên khu vực sân bay Nội Bài. Các phi công MiG-21 đã bị rơi vào một cái bẫy trong trận đồ không chiến đã được Không quân Mỹ giăng sẳn trong “chiến dịch Bolo”
Chỉ huy chiến dịch là đại tá Robin Olds, một phi công “Át chủ bài” huyền thoại trong chiến tranh thế giới thứ 2. Trong chiến dịch này Không quân Mỹ đã sử dụng những chiếc F-4C đóng giả những chiếc tiêm kích-bom F-105 để nhử những chiếc MiG-21 ra vào trận đồ không chiến mà chúng giăng sẵn. Những chiếc F-4C sử dụng đúng đường bay, mật danh, tần số liên lạc thậm chí là cả hệ thống dẫn đường Doppler như những chiếc F-105 vẫn thường sử dụng.
Sự thành công trong chiến dịch Bolo của Không quân Mỹ lại cho thấy chiến thuật sử dụng MiG-21 của Việt Nam chưa thực sự hợp lý. Thông thường các máy bay MiG-21 chỉ được phép xuất kích khi máy bay địch đã vào cách sân bay 40km, điểm yếu này đã bị phía Mỹ khai thác triệt để.
Đầu năm 1967 Không quân Việt Nam đã gặp nhiều tổn thất nhưng sau đó đã khắc phục và dần kiểm soát thế trận trên bầu trời miền Bắc.
Trong cái ngày đen tối đó, lực lượng radar cảnh giới cũng gặp phải sai sót khi để 2 biên đội F-4C do đại tá Robin Olds chỉ huy lọt vào đến sân bay Nội Bài mà không bị phát hiện. Khi đó, ngay khi được lệnh xuất kích những chiếc MiG-21 đã phơi mình dưới mưa tên lửa khi đội hình chiến thuật chưa kịp điều chỉnh.
Ngày 08/01/1967, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm về tổn thất nghiêm trọng của Trung đoàn 921 và đi đến quyết định điều chỉnh chiến thuật sử dụng MiG-21. Chiến thuật mới được điều chỉnh theo hướng du kích “đánh nhanh rút gọn”.
Số tiêm kích MiG-21 trực ban được điều chỉnh giữ ở mức từ 2-4 chiếc mỗi ca trực, khi xuất kích đánh chặn, MiG-21 được đài chỉ huy mặt đất liên tục nhắc nhở về việc thường xuyên thay đổi độ cao và tốc độ theo kiểu “thoắt ẩn, thoắt hiện” để tấn công đối phương kết hợp với MiG-17 làm nhiệm vụ hiệp đồng nghi binh.
Chiến công của những phi công Át Việt Nam
Việc áp dụng chiến thuật không kích mới từ cuối tháng 04/1967 đã nhanh chóng phát huy hiệu quả, làm giảm đáng kể hiệu quả tác chiến của Không quân Mỹ. Các chiến dịch kiểu như Bolo không còn phát huy tác dụng bởi yếu tố bất ngờ không còn và quan trọng hơn cả việc áp dụng chiến thuật không chiến mới khiến Mỹ không thể triển khai các chiến dịch như lúc trước.
Video đang HOT
Biên đội bay phi công Phạm Thanh Ngân – Nguyễn Ngọc Độ đã bắn rơi chiếc trinh sát RF-101 trên bầu trời Sơn La vào ngày 16/09/1967.
Vào ngày cuối cùng của tháng 04/1967, biên đội MiG-21 do phi công Nguyễn Ngọc Độ bay số 1 và Nguyễn Văn Cốc bay số 2 (sau này đã trở thành phi công xuất sắc nhất của Việt Nam với chiến công bắn hạ 9 máy bay Mỹ) đã bắn hạ 2 chiếc F-105. Biên đội MiG-21 thứ 2 xuất kích ngày hôm đó gồm Lê Trọng Huyên và Vũ Ngọc Đỉnh cũng đã bắn hạ thêm 1 chiếc F-105. Cả 3 chiếc F-105 bị bắn hạ ngày hôm đó đều thuộc Liên đội không quân chiến thuật số 355.
Trong tháng 05/1967, Không quân Mỹ nối lại các phi vụ không kích khu vực Hà Nội với quy mô lớn. Đáp lại lực lượng không quân tiêm kích Bắc Việt đã tiến hành hơn 40 vụ xuất kích đánh chặn mỗi ngày. Trong tháng 5, Không quân Mỹ đã bắn rơi 4 chiếc MiG-21 nhưng Không quân Việt Nam cũng lập chiến công bắn rơi 1 chiếc F-105 và 1 chiếc F-4, nhưng người Mỹ thường không ghi nhận tổn thất này là do phi công Việt Nam bắn hạ mà ghi nhận do hỏa lực phòng không mặt đất.
Ngày 11/07/1967, biên đội MiG-21 do phi công Lê Trọng Huyên và Đồng Văn Song xuất kích bắn hạ 1 chiếc cường kích A-4 Skyhawk nhưng phía Mỹ vẫn không chịu công nhận. Đến ngày 17/07 biên đội 4 chiếc MiG-21 do phi công Nguyễn Nhật Chiêu chỉ huy bắn hạ 1 chiếc F-8 Crusader. Ngày 20/07 biên đội MiG-21 của Nguyễn Ngọc Độ và Phạm Thanh Ngân tiếp tục bắn hạ thêm 1 chiếc F-4 khác.
Trong cuối tháng 7 và đầu tháng 8, Trung đoàn 921 tiếp tục bắn rơi thêm 2 chiếc trinh sát RF-4C của Không quân Mỹ, như thường lệ Mỹ vẫn giữ thói quen không ghi nhận do phi công Việt Nam bắn rơi để “giữ thể diện”
Năm 1967, kết thúc bằng những trận không chiến ác liệt, các phi công Việt Nam đã lập chiến công bắn hạ thêm 5 chiếc F-105 trong đó phi công Vũ Ngọc Đỉnh đã lập chiến công bắn hạ liên tiếp 2 chiếc F-105 đưa ông trở thành phi công “Át chủ bài” của Không quân Việt Nam.
Từ năm 1968 trở đi, hiệu quả chiến đấu của các tiêm kích MiG-21 đã trở nên hiệu quả hơn rất nhiều trong khi đó hiệu quả chiến đấu của Không quân Mỹ lại giảm sút một cách rõ rệt. Sự lão luyện của các phi công Việt Nam cùng chiến thuật công kích hợp lý đã khiến Không quân Mỹ gặp rất nhiều khó khăn trong chiến đấu và tổn thất ngày càng nặng hơn.
Trước việc hiệu quả chiến đấu suy giảm một cách nghiêm trọng, Không quân Mỹ đã phải tiến hành chương trình huấn luyện chiến đấu khác biệt Topgun nhằm cải thiện khả năng không chiến của các phi công Mỹ trước những chiếc MiG-21 nhanh nhẹn trong tay những phi công Bắc Việt xuất sắc.
Cuộc không chiến giữa Không quân Việt Nam và Không quân Mỹ tăng lên đến đỉnh điểm vào tháng 12/1972, trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không (Linebacker II). Trong chiến dịch này, Không quân Việt Nam đã bắn hạ 7 máy bay các loại trong đó có 2 pháo đài bay B-52.
Từ năm 1968 trở đi hiệu quả chiến đấu của Không quân Mỹ đã giảm sút một cách nghiêm trọng trước chiến thuật hiệu quả của Không quân Việt Nam.
Những năm chống lại các cuộc tập kích đường không của Không quân Mỹ vào miền Bắc, có đến 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu phi công “Át chủ bài” trong khi đó phía Mỹ chỉ có 5 phi công đạt được danh hiệu này.
Các phi công “Át chủ bài” của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ gồm có: Nguyễn Văn Cốc bắn rơi 9 máy bay, Mai Văn Cương 8 máy bay, Nguyễn Hồng Nhị 8 máy bay, Phạm Thanh Ngân 8 máy bay, Đặng Ngọc Ngự 7 máy bay, Nguyễn Văn Bảy 7 máy bay, Lê Hải 6 máy bay, Lê Thanh Đạo 6 máy bay, Lưu Huy Chao 6 máy bay. Nguyễn Đăng Kỉnh 6 máy bay, Nguyễn Đức Soát 6 máy bay, Nguyễn Ngọc Độ 6 máy bay, Nguyễn Nhật Chiêu 6 máy bay, Nguyễn Tiến Sâm 6 máy bay, Vũ Ngọc Đỉnh 6 máy bay, Nguyễn Văn Nghĩa 5 máy bay.
MiG-21 cùng các phi công xuất sắc của Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng lịch sử trở thành tiêm kích huyền thoại của Không quân Việt Nam. MiG-21 đã góp công to lớn trong việc bảo vệ miền Bắc trước các cuộc tập kích bằng đường không của Không quân Mỹ góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Bài viết có sử dụng tư liệu trong cuốn “Những trận không chiến trên bầu trời Việt Nam (1965-1975) nhìn từ hai phía” – NXB Quân đội Nhân dân, 2013.
Theo Tri thức trẻ
Không lực Mỹ trong chiến tranh VN và nỗi khiếp sợ mang tên MIG-21
MiG-21 là tiêm kích thành công nhất và cũng là đôi cánh làm nên sức mạnh cho Không quân nhân dân Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ.
Với tốc độ cao, hoả lực mạnh cùng với trình độ điều khiển điêu luyện của các phi công quân đội Việt Nam, tiêm kích đánh chặn MIG-21 đã làm nên những chiến công đặc biệt trong không chiến với không lực Mỹ
Cuộc đua tốc độ trên bầu trời miền Bắc
Đầu năm 1965, Không quân Mỹ bắt đầu mở rộng các phi vụ leo thang đánh phá miền Bắc. Cũng trong năm đó Mỹ đã phát hiện ra sự có mặt của hệ thống tên lửa phòng không tầm cao S-75 trong biên chế lực lượng phòng không Bắc Việt. S-75 đã chứng tỏ là một vũ khí phòng không hiệu quả để chống lại các mục tiêu đường không từ tầm trung đến tầm cao.
Không quân Mỹ lúc đó buộc phải hạ độ cao hoạt động xuống thấp hơn để tránh các tên lửa S-75. Nhưng ở độ cao thấp hơn, các máy bay của Không quân Mỹ trở nên dễ bị tổn thương hơn từ các đợt công kích của máy bay MiG-17 của Không quân Việt Nam.
Đến cuối năm 1965, cuộc chiến trên bầu trời Bắc Việt bị đẩy lên cao một cách dữ dội với sự xuất hiện của một loại khí tài chiến đấu mới, tiêm kích MiG-21. Trung đoàn không quân 921 (đoàn Sao Đỏ) là đơn vị đầu tiên của Không quân Việt Nam được vinh dự tiếp nhận các tiêm kích có tốc độ siêu âm MiG-21F-13 được trang bị tên lửa không đối không. Sự kiện này đã mở ra một sức mạnh mới cho Không quân Việt Nam. Từ đây các phi công Việt Nam đã có thể nhắm mục tiêu và tấn công bằng tên lửa có điều khiển chứ không chỉ bắn mục tiêu bằng pháo như trên Mig-17 nữa.
Sự xuất hiện của MiG-21 đã đẩy cuộc đua tốc độ giữa những tiêm kích của Mỹ và Việt Nam trở nên vô cùng ác liệt.
MiG-21F-13, NATO định danh Fishbed-C là biến thể sản xuất loạt số lượng lớn đầu tiên của MiG-21F. Đây là một tiêm kích hoạt động ban ngày, tầm ngắn, nó được trang bị động cơ phản lực Tumansky R-11 nâng cấp cung cấp lực đẩy 60,6 kN có đốt sau. Biến thể này được trang bị 2 giá phóng APU-28 mang tên lửa không đối không tầm ngắn dẫn bằng hồng ngoại K-13(AA-2 Atoll) tầm bắn 4km cùng 1 pháo NR-30 30mm cơ số 30 viên đạn.
MiG-21 là một tiêm kích rất nhanh nhẹn, nó có tốc độ tối đa gấp 2 lần vận tốc âm thanh (khoảng 2.400km/h trong điều kiện lý tưởng). MiG-21 có khả năng cơ động cao hơn nhiều so với các tiêm kích cùng thời của Mỹ như F-105 Thunderchief, F-4 Phantom, cường kích A-4 Skyhawk..
Nhanh nhẹn, khả năng cơ động cao trong tay những phi công xuất sắc của Bắc Việt, MiG-21 nhanh chóng trở thành một đối thủ đầy thách thức của Không quân Mỹ. Cuộc đua tốc độ giữa MiG-21 và các tiêm kích Mỹ trên bầu trời Bắc Việt bắt đầu trở nên ác liệt với những trận không chiến. Đến tháng 04/1966, Không quân Việt Nam được tiếp nhận thêm một số tiêm kích biến thể MiG-21PF.
MiG-21PF, chữ P theo phiên âm tiếng Nga là "đánh chặn", chữ F phiên âm tiếng Nga có nghĩa là "động cơ nâng cấp" đây là biến thể đánh chặn mọi thời tiết. MiG-21PF được trang bị động cơ R-11F2-300, trang bị radar RP-21Sapfir thay thế cho radar SRD-5M. Radar này có khả năng phát hiện máy bay chiến đấu đối phương ở cự ly 20km, khóa mục tiêu ở cự ly 10km, radar mới cho phép MiG-21 sử dụng đạn tên lửa K-5M bên cạnh các tên lửa K-13. Tuy nhiên, biến thể này không được trang bị pháo.
Trong tay những phi công xuất sắc của Việt Nam, tên tuổi của MiG-21 đã trở nên nổi tiếng và trở thành tiêm kích thành công nhất những năm chiến tranh lạnh.
Sự bổ sung MiG-21PF đã giúp Không quân Việt Nam có thêm giải pháp đánh chặn các phi đội tiêm kích của Mỹ trong các phi vụ leo thang đánh phá miền Bắc. Các phi công xuất sắc của Trung đoàn 921 như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị đã trải qua huấn luyện ở trường đào tạo phi công quân sự cao cấp ở Krasnodar, Liên Xô. Các phi công này sau đó đều trở thành các phi công "Át chủ bài" (người có số lần bắn rơi máy bay đối phương từ con số 5 trở lên). Trong số các phi công, được lựa chọn để chuyển loại sang Mig-21 là Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Nhật Chiêu, Nguyễn Ngọc Độ, Trần Mạnh, Đào Đình Luyện. Sau này, vào năm 1966 Đào Đình Luyện đã trở thành trung đoàn trưởng Trung đoàn tiêm kích 921.
Chiến công đầu tiên của Én Bạc MiG-21
Từ cuối tháng 01/1966, quá trình huấn luyện chuyển loại cho phi công lái tiêm kích MiG-21 đã hoàn tất. Những chiếc MiG-21 bắt đầu được triển khai làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. MiG-21 lúc đó là một trong những tiêm kích hiện đại hàng đầu thế giới từ thao trường huấn luyện đến chiến trường thực tế luôn là một thách thức đối với các phi công.
Để chuẩn bị tốt cho MiG-21 trong những lần xung trận, Quân chủng Phòng không-Không quân đã quyết định cho MiG-21 đánh thử vài trận để rút kinh nghiệm, đối tượng tác chiến ban đầu là các máy bay trinh sát không người lái, các máy bay cường kích tốc độ chậm của Mỹ.
Việc bắn hạ những chiếc UAV AQM-34 Firebee đã tạo ra tiền đề quan trọng cho những chiến công xuất sắc của MiG-21 về sau.
Ngày 04/03/1966, phi công Nguyễn Hồng Nhị lái MiG-21 cất cánh đã bắn hạ thành công một chiếc máy bay trinh sát không người lái AQM-34 Firebee của Mỹ ở độ cao 18km mở ra một trang mới cho Không quân Việt Nam, từ đây Việt Nam đã có thêm vũ khí lợi hại để nghênh đón các tiêm kích của Không quân Mỹ.
Mặc dù chiến công đầu tiên chỉ là những chiếc máy bay không người lái nhưng chiến công này đã tạo tiền đề tâm lý rất tốt cho các phi công cũng như sự tự tin vào khả năng làm chủ máy bay trong các tình huống chiến đấu thực tế, đó là cơ sở quan trọng cho những cuộc chạm trán ác liệt giữa MiG-21 và F-105, F-4 về sau.
Còn tiếp...
Theo Tri thức trẻ
Cứu hộ các nước chạy đua với thời gian tìm máy bay Malaysia Các tàu và máy bay của 5 quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam, đang chạy đua với thời gian để tìm kiếm chiếc máy bay chở khách của Malaysia, vốn mất tích vào sáng sớm qua 8/3 với 239 người trên khoang. Chiếc máy bay Boeing 777-200 mang số MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines đã mất tích...